Tên Các Tòa Nhà
&
Giảng Đường Đại Học Dalat
Một đặc điểm rất Á Đông là cách đặt tên Hán Việt từ các cổ thư như Tứ Thư Ngũ Kinh cho các kiến trúc và giảng đường đại học theo truyền thống văn hóa châu lục. Cách đặt tên không khô khan giống như con số giảng đường ở các đại học thường thấy bên phương Tây. Các tòa nhà hay giảng đường cũng được xây dựng xoáy trôn ốc theo dốc đồi lần lượt từ trên các cao độ khác nhau và được liên kết với nhau bằng những bậc đá lên xuống hay cầu bằng gỗ xinh xinh, những lối đi có trang điểm len lỏi quanh co giữa những khóm hoa ôn đới duyên dáng đủ loại màu sắc như mimosa, hồng, anh đào, thược dược, tầm xuân, huệ trắng, glaïeul… Các tòa nhà hay giảng đường ấy lại được đan xen thơ mộng, như ngẫu nhiên bên cạnh, chen giữa hay khuất dưới, đàng sau những lùm cây tươi mát thiên nhiên.
Những nam thanh nữ tú đã Đôn Hóa, Minh Thành, Thụ Nhân trong chốn giảng đường Spellman, giải trí lành mạnh ở Trung Tâm Sinh Viên, miệt mài ở đại học theo gương Trương Vĩnh Ký, biết sống tiết trực Thượng Hiền, Hòa Lạc, Năng Tĩnh, Cư Dị, Dị An,Tri Nhất, Kiêm Ái, thì cuộc đời sẽ trông thấy Bình Minh và Rạng Đông lâu dài như không bao giờ kết thúc.
Trong thời đại ngày nay giáo hội Công giáo muốn nhập thể vào cộng đồng dân tộc Việt Nam trên nền tảng văn hóa Á Đông. Từ ban đầu, như một truyền thống qua cách đăt tên các tòa nhà và giảng đường, Viện Đại Học Đà Lạt đã đề cao ý tưởng Tin Mừng bàng bạc trong triết học phương Đông. Nhiều tư tưởng Tin Mừng Công Giáo được diễn dịch trong các sách Kinh Thánh theo cảm quan phương Tây cũng được chứa đựng Kho tàng Tứ Thư Ngũ Kinh phương Đông. Vì thế Cổ Thư phương Đông không thiếu những tư tưởng thâm thúy, làm phương châm cho lý tưởng Thụ Nhân, tuy kho tàng ấy không phải là tất cả chân lý Tin Mừng.
Nói cách khác, trong trào lưu hội nhập văn hóa của Giáo Hội Công Giáo ngày nay, có thể nói rằng Tứ Thư Ngũ Kinh cũng là một thứ Kinh Thánh với ý nghĩa nào đó theo khẩu vị truyền thống văn hóa phương Đông. Theo nhãn quan đó, có thể giải thích ý nghĩa của từng Tòa Nhà hay giảng đường Đại Học chốn Cao Nguyên thơ mộng, khó quên này.
Từ khi hoạt động trong Viện Đại Học Đà Lạt, người viết không mấy chú ý đọc hay nghe ai giải thích chính thức về lý tưởng Thụ Nhân và các ý nghĩa ẩn ngụ trong tên gọi các tòa nhà và giảng đường thuộc Viện. Nhưng một số thành viên của Thụ Nhân, như cựu sinh viên Tạ Duy Phong KD1, hay Phạm Văn Bân KD7, đã nêu ra cách lý giải một số từ ngữ của gia đình Thụ Nhân. Người viết cho đây là những nỗ lực giải đáp khá lý thú về một số từ ngữ phương châm ấy, mặc dù trong Chỉ Nam Sinh Viên của VĐHĐL có dẫn giải một phần những nét chính yếu. Chính cộng đồng Thụ Nhân dần dần chủ động góp phần làm cho truyền thống trở nên phong phú và bền vững vậy.
Nguồn gốc các tên gọi kia đều hàm chứa ý nghĩa giáo dục thâm thúy. Dưới đây là một số ý nghĩa cơ bản mà người viết tìm kiếm đúc kết được một phần nhờ chính những truy tầm của các “hậu sinh khả úy” trong Viện.
Hai con đường chính là đường Tiền Giang, từ nhà riêng của LM Viện Trưởng ngoằn ngoèo đi qua dãy nhà có nhiều giảng đường và thư viện dẫn lên khu Năng Tĩnh ở đỉnh đồi. Và đường Hậu Giang cũng từ nhà riêng của LM Viện Trưởng, qua phòng quản lý, dẫn xuống khu ký túc xá nữ sinh viên ở sườn đồi. Bên hai con dường chính này nhiều khóm hoa anh đào, hoa mimosa hay thông reo đó đây mọc như quyện lấy ven đường như đón bước người lữ khách đa tình nhiều mộng mơ...
Thụ Nhân (Giảng Đường) được coi là danh hiệu lý tưởng soi đường cho tôn chỉ Đại Học Đà Lạt. Tư tưởng Thụ Nhân, theo tìm kiếm nhận thức chủ quan của người viết, bắt nguồn từ các nỗ lực sự nghiệp và kế hoạch trồng người ở trong câu nói của cổ thư phương Đông “Kế Hoạch Một Năm, Không Gì Bằng Trồng Lúa, Kế Hoạch Mười Năm, Không Gì Bằng Trồng Cây, Kế Hoạch Trăm Năm, Không Gì Bằng Trồng Người” (Nhất Niên Chi Kế, Mạc Nhi Thụ Cốc, Thập Niên Chi Kế Mạc Nhi Thụ Mộc, Bách Niên Chi Kế Mạc Nhi Thụ Nhân.)
Nhưng người viết đồng ý với tác giả họ Phạm là nguồn gốc ý tưởng Thụ Nhân có thể từ trong sách Quản Tử, rồi vì tam sao thất bản qua con đường lưu truyền từ đời này đến đời khác. Dù từ ngữ trong câu nói có thể thay đổi, nhưng ý tưởng cơ bản vẫn không thay đổi như câu này:
“Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc; thập niên chi kế, mạc như thụ mộc; chung thân chi kế, mạc như thụ nhân. Nhất thụ nhất hoạch giả, cốc dã; nhất thụ thập hoạch giả, mộc dã; nhất thụ bách hoạch giả, nhân dã.” (Kế một năm, không gì bằng trồng lúa; kế mười năm, không gì bằng trồng cây; kế trọn đời, không gì bằng trồng người. Cái gì trồng một cho kết quả một, tức là trồng lúa; cái gì trồng một cho kết quả mười, tức là trồng cây; cái gì trồng một cho kết quả một trăm, tức là trồng người).
Năng Tĩnh (Nhà nguyện) là con đường trọng đại, để tìm thấy chính mình trong cõi thiêng liêng sau những giờ phút miệt mài học tập mệt mỏi căng thẳng. Tu dưỡng tâm tính bằng tĩnh lặng là cách thức ưa thích của nhà Nho. Chính Thiên Chúa hay bày tỏ mình cho con người trong cõi lòng tĩnh lặng: "Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện. Trí chỉ, nhiên hậu hữu định. Định, nhiên hậu năng tĩnh. Tĩnh, nhiên hậu năng an. An, nhiên hậu năng lự. Lự, nhiên hậu năng đắc." (Con đường học lớn của người làm sáng thêm cái đức sáng suốt, ở gần dân, trụ hẳn vào nơi chí thiện. Đạt được trí, sau đó mới định được. Có định, sau đó mới có thể tĩnh. Có tĩnh, sau đó mới có thể an. Có an, sau đó mới có thể lo nghĩ. Có lo nghĩ, sau đó mới có thể thành tựu).
Cư Dị (Giảng đường) là tinh hoa trong tư tưởng "Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu nhân. Cố quân tử cư dị dĩ sĩ mệnh. Tiểu nhân hành hiểm dĩ kiêu hãnh." (Trên không trách trời, dưới không trách người. Do vậy, người quân tử ăn ở dễ dàng, qua đó mà chờ mệnh trời. Kẻ tiểu nhân làm điều nguy hiểm, qua đó mà cầu may).
Dĩ lễ (Cư xá giáo sư): Sống theo lễ giáo. Luận ngữ có câu: “Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sĩ thả cách” (Lấy đức dẫn đạo, lấy lễ mà làm cho tề theo, người ta sẽ biết hổ thẹn mà trở về đường ngay nẻo chính vậy).
Dị An (Giảng đường): dễ ở. Đào Tiềm (Đào Uyên Minh, 372-427) trong “Qui Khứ Lai Từ” có nói về chốn ở ẩn của mình là: “Thảm dung bất nhi Dị an” (Chỗ đó tuy nhỏ hep, nhưng dễ yên hàn hơn)
Dương Thiện (Đại học xá): Biểu lộ cái tốt ra. Sách Trung Dung có ghi lại lời Khổng Tử tán dương vua Thuấn. Ở đó Khổng Tử ca tụng vua Thuấn là biết che dấu cái xấu của người khác mà biểu dương cái tốt đẹp của người khác như sau: “Ẩn ác nhi dương thiện”.
Đạt Nhân (Phòng thí nghiệm): Tới đức Nhân, tức là đi tới nhân cách viên mãn.
Đôn Hóa (Văn phòng). Đôn đốc, phổ cập sinh hoá theo chiếu hướng tốt đẹp. Đạo Trời Đất là con đường vạn vật sinh sống hài hòa mà không hại lẫn nhau. “Tiểu đức xuyên lưu . Đại đức đôn hóa” (Đức nhỏ như sông ngòi chảy khắp, đức lớn như phổ cập sinh hóa).
Hòa Lạc (Toà Viện trưởng) lấy ý từ câu: “Huynh đệ ký hấp, Hoà Lạc Thả Thầm” (Anh em xum họp, Hòa Vui biết mấy).
Hội Hữu (Giảng đường) gợi lên ý tưởng đi tìm một phương cách học tập hữu hiệu nhất. Nếu chọn bạn mà chơi, thì cũng phải biết chọn bạn mà học. Cách thế học tập có kết quả nhất là hội hữu, một bí quyết thành công của đại học chi đạo: "Tăng Tử viết: Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phụ nhân." (Tăng Tử nói: người quân tử lấy văn chương mà họp bạn, lấy bạn mà giúp nhau giữ lòng nhân).
Kiêm Ái (Đại học xá sinh viên): Mặc Tử, triết nhân đời Xuân Thu, chủ trưong kiêm ái, tức là yêu thương mọi người như nhau, không phân biệt kẻ thân người sơ, lâu mau.
Lạc Thiện (Đại học xá): Vui với điều tốt lành.
Minh Thành (Giảng đường, Phòng Thí Nghiệm) bộc lộ một ý chí chân thành trong sáng. Đạt được một nhân cách minh thành, đấy là mục tiêu của giáo dục vậy: "Tự thành minh, vị chi tính. Tự minh thành, vị chi giáo. Thành tắc minh hĩ. Minh tắc thành hĩ." (Vì có lòng thành thật mà sáng suốt, đó là do tính. Vì sáng suốt mà có lòng thành thật, đó là do giáo dục. Vậy nên ai có lòng thành thật thì sáng suốt. Ai sáng suốt thì có lòng thành thật).
Spellman (Đại giảng đường ): Hồng Y Francis Joseph Spellman, (4/5/1889– 2/12/1967) là vị giám mục thứ chín và Tổng GM thứ sáu của Giáo Phận Công Giáo Nữu Ước. Đối với Việt nam, ngài đến VN lần đầu tiên năm 1955. Đang cử hành Thánh lễ tại Nhà Thờ Đức Mẹ La vang tại Quảng trị, ngài vừa khóc vừa giảng: “Tôi cầu nguyện, tôi tin chắc Đức Mẹ La vang sẽ thắng, và sẽ sớm mang lại Hòa Bình cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam”. Hai lần kế tiếp năm 1964 và 1965, nhân dịp Lễ Giáng Sinh hằng năm ngài sang với tư cách Tổng Tuyên Úy đến thăm viếng và úy lạo nhiều đơn vị Quân Đội Hoa Kỳ đồn trú ở Việt Nam. Ngài từ trần ngày 2/12/1967 tại New York trong giáo phận của ngài.
Thượng Chí (Giảng đường): Nêu cao chí hướng sống theo nhân nghĩa. Sách Mạnh Tử kể lại rằng ông Điếm, con vua Tề hỏi: “Kẻ sĩ làm gì? Mạnh Tử trả lời: “Thương Chí !” (nâng cao chí hướng lên. Ông đã giải thích “Thượng Chí” như sau: “Chẳng qua là làm điều nhân nghĩa đó thôi. Giết một người vô tội là bất nhân. Chẳng phải của mình mà dành lấy là phi nghĩa. Kẻ sĩ là ở nơi nào? Ở đức nhân. Kẻ sĩ đi đường nào? Ở đức nhân. Noi theo đức nghĩa, sự nghiệp của đại nhân như vậy là đã đầy đủ rồi vậy.
Thượng Hiền (Giảng đường): Quan niệm chính trị của người xưa là biết quí trong người hiền đức.
Tri Nhất biểu lộ cảm nghĩ bể học của thánh hiền thì vô tận và con người phải toàn tâm toàn ý mới tới gần vị tri thức độc nhất vô cùng phong phú đó: "Hoặc sinh nhi tri chi; hoặc học nhi tri chi; hoặc khốn nhi tri chi. Cập kỳ tri chi nhất dã." (Có người hoặc sinh ra đã biết; hoặc học mới biết; hoặc khốn khó mới biết. Khi đạt thì cái biết chỉ có một).
Trích:
Viện Đại Học Đà Lạt 1957-1975
tác giả Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm