Những Điều Cở Bản Minh Chứng Sự Hiện Hữu Của Thiên Chúa

CHỨNG MINH SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA

Phần 1:

Vấn Đề 09: Bạn là người công giáo, nghĩa là bạn tin có Thiên Chúa. Vậy bạn hãy chứng minh có Thiên Chúa đi xem.

ĐÁP:

1.LỜI CHÚA: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Ngài” (Tv 18,2).

2.SUY NIỆM:

Khoa học không bàn đến vấn đề Thiên Chúa, không thể quả quyết có Thiên Chúa hay không, vì đây không thuộc lãnh vực nghiên cứu tìm hiểu của nó. Tuy nhiên Khoa học vẫn có thể giúp các tín hữu chúng ta dễ dàng nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa nhờ những khám phá của nó về vũ trụ thiên nhiên, về những định luật chi phối hoạt động của các sinh vật và nhất là loài người, những sự điều tra khách quan về các hiện tượng lạ thường trái với định luật thiên nhiên cho thấy có sự can thiệp của một quyền lực siêu nhiên… như sau:

  

I.VŨ TRỤ MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA

1.Đại vũ trụ minh chứng có Thiên Chúa:

Mở mắt nhìn xung quanh, ta thấy vũ trụ bao la vô hạn. Khoa học giúp chúng ta hiểu rõ các hiện tượng và sức chuyển động trật tự của mọi vật trong đó. Với con mắt thường, ta có thể đếm được khoảng 5000 ngôi sao lấp lánh trên bầu trời bao la. Nhưng nhờ viễn vọng kính đặt trên núi Wilson, các nhà thiên văn học có thể nhìn thấy hơn 200 triệu ngôi sao. Còn biết bao nhiêu ngôi sao khác người ta đã nhận biết, nhưng vì ở quá xa, nên tới nay các nhà thiên văn vẫn chưa thể xác định được.Nguyên trong giải ngân hà mà thái dương hệ của chúng ta chỉ chiếm một phần nhỏ bé, người ta cũng đã tính được tới 50 tỷ định tinh và hằng tỷ ngôi sao đã chết. Mà không phải chỉ có một giải ngân hà, hiện nay người ta đã biết được có hằng tỷ giải ngân hà rồi.

Những vì tinh tú to lớn làm sao, mấy hành tinh ở gần chúng ta như Uranus đã lớn hơn trái đất 14 lần, Neptune to hơn 17 lần, Saturne 93 lần, Jupiter 1279 lần, và mặt trời to hơn những 1.300.000 lần. Sao Sirius còn to hơn mặt trời 12 lần, còn nhiều sao khác còn to hơn sao Sirius nữa…

Những vì tinh tú ở cách xa nhau đến nỗi ta không thể đọc bằng con số thường, mà phải lấy đơn vị là quang niên (năm ánh sáng) như sau: Vận tốc ánh sáng trong một giây đồng hồ là 299.792.458km, tương đương 300.000 km/ giây. Mỗi phút có 60 giây, mỗi giờ có 60 phút, mỗi ngày có 24 giờ, mỗi năm có 365 ngày ¼. Vậy một quang niên sẽ là 299.792.458km x 60 x 60 x 24 x 365,1/4 sẽ thành 9460 tỷ cây số. Ánh sáng từ mặt trời đến trái đất chúng ta phải mất thời gian 8 phút 20 giây, từ trái đất đến mặt trăng phải mất hơn 1 phút. Nhưng nếu từ trái đất vượt qua thái dương hệ đến ngôi sao gần nhất trong chòm sao Nhân Mã phải mất thời gian 4 năm (4 quang niên ). Nhờ thiên lý kính ta biết được những tinh vân xa 140 triệu quang niên. Càng ngày với những kính viễn vọng kính tối tân hơn, người ta lại càng xem thấy xa hơn nữa.

Trái đất mỗi ngày quay chung quanh mình một vòng, đang khi nó vẫn chạy theo quỹ đạo mặt trời với vận tốc 30 km/giây, hoặc 108 ngàn km/giờ không bao giờ sai trật, đến nỗi các nhà bác học có thể tính trước được ngày giờ của các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.

Bầu trời rộng rãi bao la vô hạn thế mà mấy phi công lái máy bay thỉnh thoảng lại đụng nhau gây nên biết bao tang tóc! Vậy mà từ tạo thiên lập địa đến nay vẫn chưa có một hành tinh nào chạm nhau giữa bầu trời nhiều tinh tú như thế.

Vậy thì vũ trụ bao la với trật tự kỳ diệu, tuân theo những định luật lạ lùng chính xác như thế lại không phải là bằng chứng chắc chắn có sự sắp đặt an bài của Đấng Tạo Hóa hay sao? Becquerel đã nói: “ Chính các công cuộc khảo cứu khoa học của tôi đã đưa tôi đến chỗ nhận biết có Thiên Chúa tạo hóa và làm cho tôi có đức tin.”

2.Tiểu vũ trụ cũng chứng minh có Thiên Chúa:

Vũ trụ tinh tú khổng lồ thật là một kỳ công. Nhưng vũ trụ nguyên tử tý hon cũng không kém phần lạ lùng kỳ diệu. Nếu đem phân tích vật chất, ta sẽ thấy như sau:

-Đơn chất: Mọi vật chất trong vũ trụ thiên nhiên đều được cấu thành bởi những đơn chất. Chẳng hạn: Cái bàn do nhiều đơn chất gỗ hợp lại thành. Chiếc nhẫn là do nhiều đơn chất vàng cấu tạo nên… Những đơn chất này rất nhỏ, nhỏ đến nỗi mắt thường của chúng ta không thể phân biệt được chúng với nhau.

-Nguyên tử: Mỗi đơn chất nói trên lại được cấu tạo bởi một số nguyên tử nhất định. Chẳng hạn: Chất nước gồm một nguyên tử Ôxy và 2 nguyên tử Hyđrô kết hợp thành đơn chất H2O.

Các nguyên tử đều khác nhau tùy theo mỗi vật: nguyên tử đồng khác nguyên tử sắt; nguyên tử vàng khác nguyên tử gỗ…Những nguyên tử này ở rải rác khắp nơi trong vũ trụ, khi thì kết cấu với cái này, khi thì với cái khác làm thành sự biến hóa vật chất không ngừng trong thiên nhiên. Ta có thể ví các nguyên tử giống như 24 chữ cái a,b,c…hợp tan, tan hợp, làm thành các tiếng. Đến nay các nhà bác học đã xác định được 92 nguyên tử khác nhau.

Nguyên tử nhỏ lắm, nhỏ đến nỗi những kính hiển vi phóng đại mạnh nhất cũng không thể nhìn ra được. người ta chỉ căn cứ vào dấu vết nó đi qua để nhận biết sự hiện hữu của nó. Hiện nay những kính hiển vi tối tân nhất có thể nhìn những vât nhỏ bằng 2 phần 10 triệu milimét. Nhưng như thế vẫn còn lớn hơn nguyên tử hằng mấy triệu lần!

Mỗi nguyên tử là một thái dương hệ, có một nhân ở trung tâm giống như mặt trời, gồm các dương điện tử (Proton) và trung hòa tử (Neutron) liên kết với nhau.Lượn chung quanh nhân là chi chít những âm điện tử (Electron). Các âm điện tử này chạy chung quanh trung tâm với tốc độ 297.000km/giây. Thật không khác gì các hành tinh lượn chung quanh mặt trời và cách xa nhau tương đối cũng bằng khoảng cách của các hành tinh đối với mặt trời vậy.

Khoảng giữa các nguyên tử, có gì không? Thực không có gì hết. Nếu các nguyên tử sát lại với nhau thì ta không thể nâng nổi đầu của một cái kim khâu. Trọng lượng của các vật nặng nhẹ khác nhau là vì cách xếp đặt nguyên tử của các vật đều khác nhau. Nếu người ta có thể dồn ép các nhân dương điện tử trong một nguyên tử, và các nguyên tử trong thân thể con người khít lại gần nhau, thì thân thể ta chưa chắc to bằng một hột đậu, mà vẫn cân nặng như hiện nay!

Có một sức lực ghê gớm đã giữ cho trái đất và các hành tinh quay chung quanh mặt trời, thì cũng có một sức lực tương tự giữ âm điện tử quay chung quanh trung tâm nguyên tử như vậy. Nếu lợi dụng được sức mạnh mẽ đó, thì người ta sẽ có một sức mạnh kinh khủng. Đó là điều các nhà bác học đã làm để chế tác bom nguyên tử với chất Uranium. (Bom nguyên tử là một thứ khí giới tối tân nhất có sức tàn phá do những hạt nguyên tử bị tách ra, Radium luôn luôn chiếu ra những quang tuyến “ A.B.Y” và quang tuyến Y luôn luôn phát ra những chất cực nhỏ có thể xuyên qua những tấm sắt dầy 20cm. Chỉ có lớp chì dày mới có thể cản được sức tàn phá của nó).

Những điều nói trên cho ta thấy có sự xếp đặt, an bài trật tự từ cái cực to đến cái cực nhỏ, trật tự ấy lại rất hoàn hảo không thể làm khác đi được. Nếu cố tình làm sai thì sẽ gây nên những hậu quả tai hại khôn lường.

Một câu chuyện xảy ra chứng minh trật tự thiên nhiên hoàn hảo đến độ nào: một con ong dù không có trí khôn, nhưng nó luôn phải bó buộc làm theo bản năng thúc đẩy. Theo bản năng thiên phú, khi làm tổ chứa mật, ong tự nhiên xây bình chứa hình lục lăng. Các nhà bác học đã quan sát nghiên cứu cách xây dựng tổ ong, và đã đo rất nhiều bình do nhiều loại ong thực hiện, bao giờ góc tù của bình ấy cũng là 109028’ và góc nhọn cũng là 70032’.

Nhà bác học REAMUR một ngày kia đặt câu hỏi thế này: Giả sử muốn làm một cái bình hình lục lăng có khả năng chứa nhiều nước nhất thì phải làm mỗi góc của bình ấy bao nhiêu độ? Một nhà bác học ra công tính toán những con tính rắc rối với việc sử dụng cả bảng tính Logarithme, cuối cùng tuyên bố kết quả: muốn cho bình chứa được nhiều nước nhất phải làm góc tù là 109026’ và góc nhọn là 70034’. Chỉ sai biệt với bình chứa của ong làm có 2’.

Thế rồi một ngày nọ xảy ra tai nạn làm hỏng một chiếc tầu. Thuyền trưởng không chịu trách nhiệm và cho rằng mình đã làm đầy đủ bổn phận, đã tính toán rất đúng. Vậy sở dĩ có rủi ro là vì đường vĩ tuyến có sự sai lầm nào đó. Sau khi tìm tòi lâu ngày, người ta mới khám phá ra rằng trong bảng tính Logarithme có một chổ sai, khiến vị thuyền trưởng làm tính sai và gây ra tai nạn cho chiếc tầu. Chữa lại chỗ sai trong bảng tính rồi thử lại với cách tính 2 góc của hình lục lăng nói trên thì các nhà bác học mới thấy mình đã làm sai 2’. Phải thực hiện chiếc bình theo góc tù là 109028’ và góc nhọn cũng là 70032’ như con ong đã làm mới đúng.

Vậy loài ong không có trí khôn biết tính toán như con người, chỉ biết làm theo bản năng thiên phú, thế mà lại làm đúng hơn cả những nhà bác học thông minh nhất! Đứng trước sự kiện hiển nhiên ấy, loài người phải đặt vấn đề: Cái trật tự hoàn hảo trong thiên nhiên nói trên do đâu nếu không bắt nguồn từ một trí khôn siêu việt, đã từng sáng tạo vạn vật và an bài theo một trật tự hoàn hảo được gọi là định luật thiên nhiên nơi vũ trụ và bản năng nơi các sinh vật. Nguyên nhân ấy chính là Thiên Chúa.

II.SINH VẬT CHỨNG MINH CÓ THIÊN CHÚA:

Sự sống tràn đầy trên mặt đất, đâu đâu ta cũng nhận thấy có sinh vật hoạt động. Nhưng cho tới nay, sự sống vẫn còn là một huyền nhiệm mà khoa học bất lực không thể giải thích được lý do. Sự sống sẽ là một điều phi lý nếu người ta không công nhận có Thiên Chúa:

1.Huyền nhiệm của sự sống:

Sự sống là một cái gì đó huyền bí. Người ta chỉ có thể cảm nghiệm hay thấy được hiệu quả của sự sống, chứ không thể nhìn được chính sự sống nơi cơ thể một sinh vật sống động. Người ta cũng có thể làm thay hình đổi dạng, cắt cụt một phần cơ thể con vật, có thể làm cho nảy nở nhanh chóng hơn, hoặc kéo dài them chút ít sự sống, nhưng không bao giờ có thể thay đổi được nguyên lý của sự sống nơi con vật. Chẳng hạn: con chó đã được cấu tạo trở thành loài chó, thì không có cách nào làm cho nó hóa ra loài bồ câu được.

Để tìm hiểu sự sống, các nhà bác học đã phân chất một quả trứng gà, rồi dùng các chất y như vậy để làm nên một quả trứng gà khác với đầy đủ mọi tính chất như trứng gà thực. Tuy vậy, dù được cấu tạo giống hệt như nhau, mà khi đem cả hai vào máy ấp thì trứng gà đẻ ra thì sống và nở ra gà con, còn trứng gà của các nhà bác học “ đẻ” thì chết và bị hư thối. Sở dĩ trứng nhân tạo không thể sống, dù các yếu tố vật chất trong quả trứng ấy vẫn hoạt động đúng theo định luật vật lý hóa học, là vì không có một sức lực vô hình liên kết các hoạt động ấy theo một hướng chung, phát triển theo một mô thức chung. Chính sức lực vô hình ấy là bí mật của sự sống. Bác sĩ ALEXIS CARREL (1873-1944) là nhà giải phẫusinh vật học người Pháp đã được trao Giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1912, đã trình bày về sự tăng triển kỳ diệu của sự sống từ một tế bào, rồi tế bào ấy tự phát triển theo một mô thức đặc biệt để trở thành con vật sống động như sau:

“Con vật được cấu tạo bởi những tế bào, cũng giống như cái nhà được xây dựng bằng những viên gạch. Nhưng con vật xuất phát từ một tế bào duy nhất, như thể cái nhà chỉ bắt nguồn từ một viên gạch mà thôi. Một viên gạch đầu tiên tự tạo lấy những viên gạch khác, chỉ với nước suối, những chất muối hòa tan trong nước vá khí trời. Rồi những viên gạch ấy không cần đến kiến trúc sư vẽ kiểu, khong cần đến bàn tay của thợ hồ, đã tự động kết hợp thành những bức tường. Các viên gạch cũng tự động biến thành các tấm kính để làm cửa, ngói để lợp mái, than để đốt lò, nước để làm bếp.” (Alexis Carrel : “L’Homme, cet inconnu”- P. 160).

Như vậy thì hình như mầm giống con vật sinh sống đã biết trước cái nhà mà nó xây dựng. Hiện tượng kỳ lạ ấy diễn ra hằng triệu lần mỗi ngày cho hằng triệu giống vật sinh sống, cũng như diễn ra âm thầm trong bụng những con vật mẹ.

Khi nhìn vào sinh vật thượng đẳng là con người chúng ta lại càng phải thán phục sự tinh vi kỳ diệu và hoàn hảo của sự sống: hai buồng phổi là một xưởng máy sản xuất dưỡng khí thật hoàn hảo. Dạ dày là một nhà máy chế biến đồ ăn trở thành chất bổ nuôi dưỡng cơ thể. Gan là bộ máy phát ra sức nóng và sức chuyển động.Thận là nhà máy lọc các chất dơ. Trái tim là thứ máy bơm hai chiều. Óc và hệ thần kinh là nhà máy điện tử với một hệ thống liên lạc để điều khiển toàn thân. Hai tay là hai cơ quan hành động hữu hiệu. Chân là cơ quan để di chuyển. Mắt là một thứ máy chụp tự động tối tân nhất. Tai là đài ra đa sống động. Họng là máy phát thanh hoàn hảo…Có thể nói: cơ thể sống động của con người thực là một hiện tượng thần kỳ và khó hiểu nhất trong vũ trụ thiên nhiên, là một kỳ quan lớn nhất trong các kỳ quan trên thế giới.

Vậy sự sống bí nhiệm lạ lung nơi các sinh vật từ hạ đẳng đến thượng đẳng nói trên bởi đâu xuất hiện?

2.Nguồn gốc của sự sống:

Nói về nguồn gốc sự sống do đâu mà xuất hiện thì có rất nhiều giả thuyết khác biệt nhau được nêu ra:

1)Một số người quả quyết sự sống vẫn có ngay từ buổi đầu, ngay từ khi trái đất bắt đầu thành hình.

Nhưng theo các nhà khoa học thì trái đất khi mới xuất hiện là một khối lủa có nhiệt độ rất cao ở thể chảy lỏng rồi phải mất một thời gian dài mới nguội dần. Như vậy, sự sống làm sao có thể chịu nổi sức nóng kinh khủng thuở ban đầu ấy được ? Ông Cuvier, một nhà cổ sinh vật học trứ danh, đã quả quyết như sau: “Nhất định sự sống không bắt đầu cùng với trái đất. Một nhà quan sát sẽ dễ dàng nhận biết lúc nào sự sống mới xuất hiện và lưu lại vết tích dưới các tầng đất của địa cầu”. Vậy lúc đầu tiên không có mà ngày nay ta thấy sự sống đã tràn lan trên mặt đất. Thế thì sự sống ấy do đâu mà có nếu phủ nhận sụ sáng tạo của Thiên Chúa ?

2)Có người lại cho rằng sự sống ngày nay có được là do các mầm sống từ một nơi nào đó trong vũ trụ rơi xuống mặt đất, rồi sau đó sinh sôi nảy nở thêm ra và lan rộng ra khắp nơi.

Nhưng nếu thực sự có mầm sống từ không trung rơi xuống như thế, thì lại phải giải thích cái mầm sống ấy từ đâu ra? Hơn nữa, theo những khám phá mới nhất của khoa học không gian thì những hành tinh gần chúng ta như Mặt trăng (cũng là một hành tinh ngang hàng với trái đất chứ không phải phát xuất từ trái đất!), Kim tinh, Hỏa tinh đều không có dấu hiệu nào cho thấy có sự sống cả. Đàng khác, nếu có mầm sống rơi như vậy, thì theo các nhà khoa học: mầm sống ấy chắc chắn không thể sống được, mà đã bị các tia phóng xạ của ánh sáng mặt trời tiêu diệt rồi.

3)Cũng có người lại chủ trương sự sống tự nhiên mà có. Theo họ, trong một điều kiện nào đó về nhiệt độ và khí hậu… thì vật chất sẽ tự hóa sinh ra các sinh vật. Chẳng hạn: Cái bàn bằng gỗ sau thời gian ít năm sẽ tự nhiên bị mọt ăn, hoa quả thối chin sẽ tự nảy sinh ra dòi bọ…

Nhưng thuyết sự sống tự phát sinh này đã bị Pasteur và Tyndall chứng minh ngược lại. Hai nhà bác học thời danh này đã làm một thí nghiệm cho thấy: không bao giờ có sự tự hóa sinh. Hai ông đã cô lập hóa một vài môi trường mà sự sống thường phát sinh. Rồi tìm cách loại bỏ, giết chết tất cả các mầm sống có sẵn trong môi trường ấy. Hai ông cho biết: dù có đủ mọi điều kiện thích hợp, môi trường bị cô lập kia cũng không bao giờ tự hóa sinh sự sống nữa. Vậy sở dĩ có trường hợp vật chất hóa sinh sự sống là vì đã có sẵn mầm sống trong vật chất đó, nên khi đủ điều kiện nó liền tự nảy nở ra. Thực sự không có vấn đề ngẫu sinh hay tự hóa sinh cả.

Ngoài ra, tất cả những thí nghiệm nhằm tạo nên tế bào sống đều thất bại. Một vị giáo sư sinh vật học nọ một ngày kia đã thử làm một hạt giống nhân tạo. Ông phân chất một hạt giống thật, rồi dùng những chất liệu như vậy để chế tạo ra một hạt giống khác. Sau một thời gian quan sát, ông nhận xét: hạt giống nhân tạo cũng mọc lên, có rễ, có thân, nhưng vẫn không có sự sống, không thở, không lưu chuyển nhựa sống. Sở sĩ cây có mọc lên mà không sống là vì thiều hai đặc tính quan trọng của sự sống là : có tổ chức và tự dinh dưỡng. Còn sự mọc rễ, mọc thân nói trên cũng chỉ là một hiện tượng vật lý hóa học của các chất hữu cơ, chứ không có chút dấu vết nào của sự sống thực sự. Bác sĩ Halluin giải thích them về hiện tượng mọc rễ mọc thân như sau: “Hạt giống mọc lên thực nhưng núi đá cũng mọc lên mà vẫn không sống, cũng như một quả bóng người ta thổi hơi vào cũng phình ra mà vẫn không sống, thân cây rong biển khô, được đặt vào nơi ẩm ướt cũng phình lên to, nhưng sự phồng lên đó không phải dấu của sự sống.”

Nhà bác học Delage đã làm một thí nghiệm về sự thụ thai nhân tạo: ông cho một con hải đởm cái thụ thai mà không theo cách thức thông thường là giao hợp với con đực. Mượn lấy thí nghiệm ấy, một số người vô tín đã vội lên tiếng quả quyết: “Loài người đã tạo dựng lên được sự sống”. Nhưng chính Delage lại phủ nhận quả quyết mà người ta đã gán cho thí nghiệm của ông như sau: “Khi tôi làm được cho con hải đởm thụ thai và sinh con như thế, người ta kêu ầm ĩ lên rằng: tôi đã tạo ra được sự sống. Nhưng thực sự tôi chẳng tạo ra được gì cả. Những ống tiêm của tôi chỉ có thể ảnh hưởng đối với trứng của con vật kia, khi tiêm vào đó một chất hữu cơ.Còn nói rằng tôi đã tạo ra được sự sống thì thực là lầm to!”

Như vậy, không có vấn đề ngẫu sinh, không có tự hóa sinh tuyệt đối. Khoa học không thể làm được một vật sống động nếu không có sẵn một mầm sống trước đó. Nếu sự sống không tự nhiên có thì phải nhận có sự sáng tạo của một nguyên nhân tối hậu nào đó. Nguyên nhân ấy là Thiên Chúa. Chính Ngài đã sáng tạo sự sống cách trực tiếp hay gián tiếp bằng cách xếp đặt một trật tự, một định luật trong vật chất, để khi có đủ điều kiện thì mầm sống ấy sẽ xuất hiện.

Ngoài ra, khi tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên, người ta cũng nhận ra rằng: có một sự xếp đặt nhằm bảo tồn sự sống nơi các định luật thiên nhiên chi phối sự vận hành của các hành tinh trong vũ trụ.

3. Bảo tồn sự sống:

Khoa học cho biết: sự sống chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu hội đủ điều kiện về khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng…Nếu thiếu một trong các điều kiện quan trọng thì sinh vật khó long sống được. thế mà khi quan sát các hiện tượng thiên nhiên, người ta lại đi kết luận chung như sau: Có một sự xếp đặt nào đó để bảo tồn sự sống trong vũ trụ. Thực vậy:

1)Tốc độ quay của trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Trái đất hiện đang quay với tốc độ 1600 km/giờ ở đường xích đạo. Nếu quay chậm đi 10 lần, thì ngày và đêm trên địa cầu sẽ dài gấp 10 lần hiện nay. Như vậy một số cây sẽ bị chết khô, số còn lại sẽ bị chết cóng.

2)Khoảng cách giữa mặt trời và trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Nhiệt độ của mặt trời là 5.500 độ. Trái đất cách quãng xa vừa đủ để cho chúng ta được sưởi ấm. Nếu giảm đi một nửa khoảng cách để xa mặt trời hơn thì mọi sinh vật sẽ chết vì lạnh. Nhưng nếu them một nửa khoảng cách để đến gần mặt trời hơn thì mọi vật sẽ bị chết cháy hết.

3)Độ nghiêng của trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Trái đất phải ở vị trí hiện nay, nghĩa là nghiêng 23 độ thì mới có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông và hai cực mới khỏi bị chồng chất băng tuyết. Nếu nghiêng ở vị trí khác thì mùa màng sẽ thay đổi khác hẳn, sẽ ảnh hưởng tới sự đâm chồi nảy lộc và đơm bông kết trái của cây cối.

4)Khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng cũng giúp bảo tồn sự sống: Nếu mặt trăng gần lại trái đất 80.000 cây số thì mỗi ngày nước biển sẽ bao phủ lục địa 2 lần và sẽ cuốn trôi mọi vật ra biển.

Như vậy, trước những lý chứng hiển nhiên nói trên, mọi người có trí khôn đều phải công nhận: phải có một trí khôn siêu việt và một bàn tay quyền năng nào đó đã tạo dựng nên sự sống cách trực tiếp hoặc gián tiếp, và đã an bài xếp đặt chúng có những điều kiện thiên nhiên hoàn hảo như hiện nay. Trí khôn siêu việt và bàn tay quyền năng ấy chính là Thiên Chúa sáng tạo vậy.

III.LUẬT LUÂN LÝ MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA:

1.Nơi mỗi người đều có luật luân lý:

Ai trong chúng ta cũng đều nghe thấy một tiếng nói thầm kín khuyên bảo phải làm điều lành và tránh làm điều ác. Đồng thời ta sẽ cảm thấy niềm vui thỏa sau khi thực hiện được một điều thiện, trái lại sẽ cảm thấy ray rứt bất an nếu cố tình làm trái tiếng nói thầm kín ấy. Đó là tiếng nói của lương tâm, một luật tự nhiên vẫn có sẵn trong tâm trí mỗi người từ khi sinh ra.

Luật tự nhiên này có những đặc tính khác hẳn những định luật vật lý hóa học, hoặc luật lệ xã hội như phong tục tập quán hoặc luật pháp của quốc gia.

+ Luật lý hóa một khi đủ điều kiện thì đương nhiên phải xảy ra. Chẳng hạn: lửa gặp rơm khô ngoài khí trời tất nhiên sẽ phải cháy. Còn luật luân lý thì không những lệ thuộc điều kiện khách quan bên ngoài, nhưng còn lệ thuộc vào sự lựa chọn chủ quan. Chính do sự lựa chọn tự do này mà con người trở thành một loài vật giá trị ưu việt nhất, khác hẳn các loài vật hành động hoàn toàn do bản năng mù quáng thúc đẩy. Văn hào Chateaubriand đã nói: “Con hổ xâu xé con mồi rồi ngủ ngay được. Duy chỉ có con người, sau khi đã nhúng máu thì khó lòng nhắm mắt bình an, vì những hình ảnh báo oán của kẻ bị hại luôn hiện lên trước mắt y.

+ Luật xã hội do con người trong xã hội quy định gọi là phong tục tập quán. Luật pháp quốc gia do một số người đại diện có trách nhiệm thiết lập nên và được ghi chép lại thành văn để mọi người trong quốc gia ấy tuân giữ. Trong khi luật luân lý vẫn có sẵn trong mỗi người từ khi sinh ra, chứ không nhất thiết phải có ai dạy mới biết, không được ghi chép thành văn giống như luật quốc gia ở trên. Thế mà hầu như mọi người không phân biệt thời đại, dân tộc, quốc gia… cũng đều biết cùng một bộ luật căn bản giống nhau là: phải làm việc lành và tránh làm điều ác, không được giết người vô tội, không được ăn cắp hoặc cướp đoạt tài sản của người khác cách bất công, phải thảo hiếu cha mẹ, trọng kính người trên v.v… Mà nếu cố tình làm trái các điều trên thì đương nhiên con người sẽ bị lương tâm cáo trách, cho dù các việc làm ấy không ai hay biết. Câu chuyện Cain trong Thánh Kinh chứng tỏ điều đó.

Ca-in vì ghen tuông nên đã phạm tội giết đứa em ruột là A-ben, rồi sau đó đã chạy trốn con mắt lương tâm theo dõi nhưng không sao chạy thoát. Cuối cùng Ca-in đã phải tự tìm đến cái chết treo cổ để đền tội. Nhà văn hào Plutarque người Hy lạp cũng kể câu chuyện nội dung như sau: Một gã kia tên là Pessus phạm tội giết cha. Dù không ai hay biết việc làm của hắn, nhưng có điều lạ là từ hôm đó, Pessus luôn nghe thấy những con chim én lặp đi lặp lại: “ mày là thằng giết cha, mày là thằng giết cha!”, dù thực sự loài én chỉ biết kêu một âm thanh như thường lệ. Hắn tìm cách phá hết mọi tổ én, nhưng vẫn không xong. Cuối cùng hắn đã buột miệng nói với người khác rằng những con chim én luôn kêu hắn là kẻ giết cha. Sinh nghi, người ta mở cuộc điều tra và việc giết cha của hắn đã bị đưa ra ánh sáng.

2.Tiếng lương tâm hay luật luân lý trong con người: Các câu chuyện trên cho thấy có một thứ luật luân lý tự nhiên gọi là tiếng lương tâm, chi phối mọi hành động của con người có trí khôn, thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc, màu da, tiếng nói… Vậy luật ấy do đâu mà có?

1)Nguồn gốc của luật luân lý nơi con người.

Có một số người nói rằng luật luân lý tự nhiên nơi mỗi người là do tự mình đặt ra cho mình, hoăc cũng có thể do xã hội giáo dục từ nhỏ rồi nhập tâm dần dần mà ra. Nhưng khi đi sâu vào việc nghiên cứu tìm hiểu, chúng ta thấy không phải như vậy vì những lý do như sau:

-Lương tâm mỗi người không phải tự mình đặt ra: Vì nếu mỗi người tự đặt ra luật cho mình thì chắc người ta sẽ phải đặt ra những luật dễ giữ và có lợi cho bản thân, đồng thời sẽ loại bỏ những luật có hại cho bản thân mình. Nhưng luật luân lý có những đặc tính khác hẳn: khó giữ vì không luôn phù hợp với khuynh hướng xấu của con người, nên chắc không phải do tự mỗi người đặt ra cho mình. Đàng khác, nếu mỗi người đều tự lập ra luật riêng cho mình thì chắc luật luân lý sẽ phải khác nhau chứ không thống nhất giống nhau như ta thấy trong luật luân lý nơi con người được.

-Luật luân lý cũng không phải do xã hội giáo dục, khuôn đúc hình thành dần dần trong tâm hồn mỗi người từ nhỏ đến lớn vì:

+Xã hội là do nhiều cá nhân kết hợp lại thành. Nếu luật luân lý do xã hội giáo dục thì chỉ những ai sống trong cùng một xã hội mới hiểu biết và mới giữ luật ấy. Nhưng trong thực tế có những người sống một mình từ nhỏ tới lớn, không tiếp xúc, cũng không chịu ảnh hưởng của xã hội, thế mà họ vẫn biết cùng một thứ luật luân lý như nhau. Như vậy, luật luân lý tự nhiên chắc chắn không phải do xã hội, cũng không bắt nguồn từ xã hội.

+Đàng khác, nếu luật luân lý bắt nguồn từ xã hội thì chắc sẽ phải thay đổi tùy theo mỗi xã hội, chứ không thể có tính đồng nhất trong mọi xã hội như tiếng nói của lương tâm mỗi người được.

Vậy phải đi đến kết luận: luật luân lý tự nhiên có sẵn trong tâm hồn mỗi người ngay từ khi mới sinh ra, chứ không phải mỗi người tự đặt ra luật riêng cho mình; Cũng không phải do xã hội khuôn đúc giáo dục hình thành. Cha mẹ, thầy dạy hay xã hội chỉ đóng vai trò phụ thuộc, giúp cho luật ấy phát triển mau lẹ và rõ ràng hơn trong tâm hồn đứa trẻ mà thôi. Luật luân lý tự nhiên ấy phải do Tạo Hóa in sẵn trong tâm hồn con người có lý trí, tương tự như một thứ bản năng của thân xác.Đấng ấy chính là Thiên Chúa. Giám mục Jacques Bénigne Bossuet đã nói: “Những chân lý vĩnh cửu và bất biến của luật luân lý bó buộc ta phải công nhận có một Đấng mà chân lý vĩnh cửu luôn tồn tại nơi Ngài.”

IV.NHỮNG VIỆC LẠ LÙNG MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA:

Ngay trong thế kỷ 21, thế kỷ khoa học tiến bộ vượt bậc trong việc tìm hiểu và khám phá những định luật chi phối vũ trụ thiên nhiên, chi phối mọi sinh vật, động vật kể cả con người…Thế mà vẫn không thiếu những trường hợp lạ lùng trái ngược luật tự nhiên xảy ra khắp nơi: khỏi bệnh nan y một cách tức khắc không do sự chữa trị thông thường, mà do một thứ quyền lực thiêng liêng nào đó ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Những hiện tượng xáo trộn trật tự vũ trụ như mặt trời quay ở Fatima Bồ Đào Nha vào đầu thế kỷ 20 (năm 1917) đã được hằng vạn người chứng kiến v.v… Tất cả những hiện tượng ấy gọi chung là các phép lạ.

1.Có phép lạ thực hay chỉ là bịa đặt:

Từ 11/02 đến 16/07/1858, Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần với Bernadette Soubirous. Lần thứ 9, Đức Mẹ chỉ cho Bernadette tìm được nguồn suối dưới chân hang đá Massabielle. Nơi đây trở thành linh địa, mỗi năm có hơn 6 triệu khách hành hương uống và tắm trong nước suối. Từ 150 năm nay có 7 ngàn trường hợp khỏi bệnh không thể cắt nghĩa được.

Vào trung tuần tháng 10, mưa hồng ân đổ xuống Lộ Đức. Vị giám mục giáo phận Casale Monferrato ở miền bắc nước Ý chính thức công bố quyết định công nhận phép lạ thứ 68.

Đức Cha Nicolas Brouwet, giám mục Lộ Đức đã tuyên đọc sắc lệnh công nhận, với sự chứng kiến của BS Alessandro de Franciscis, chủ tịch văn phòng y chứng Lộ Đức (BCM). Phép lạ chữa lành cho nữ tu Luigina Travetrso được ghi nhận vào ngày 23/07/1965.

Sœur Luigina Traverso sinh năm 1934, bị liệt cột sống. Vị nữ tu này chịu giải phẫu nhiều lần vẫn không khỏi. Ủy ban Y khoa Quốc tế Lộ Đức (Cmil) đã chứng thực ngày 23/07/1965, trước hang đá Lộ Đức, vị nữ tu này đứng dậy được từ xe lăn, đi đứng bình thường. Đây là phép lạ thứ 68 được chính thức công nhận.

Đức Mẹ đã phán bảo: ‘‘Các con hãy đến uống và tắm nước suối.’’ Từ đó, nhiều người được khỏi bệnh. Năm 1884, Giáo hội Công giáo thành lập Văn phòng Y chứng để xem xét các lời khai. Sau khi được Văn phòng này chấp nhận, hồ sơ được chuyển qua Văn phòng Y khoa Quốc tế. Sau đó, giáo phận của người được lành bệnh chính thức mở cuộc điều tra. Nữ tu Luigina Traverso là trường hợp thứ 68 được công nhận được khỏi bệnh nhờ phép lạ.

Thành viên của Văn phòng Y chứng và Văn phòng Y khoa Quốc tế gồm cả những những bác sĩ không công giáo. Các chuyên gia cần chứng nhận trường hợp khỏi bệnh không thể giải thích được bằng khoa học. Các tiêu chuẩn xét nghiệm gồm việc:

- Người bệnh được chẩn đoán một cách minh bạch;

- Bệnh trạng đã được xác nhận trước khi xảy ra phép lạ;

- Người bệnh được hoàn toàn lành bệnh tức khắc và vĩnh viễn, sau này không bị tái phát;

- Việc trị liệu y khoa không phải là nguyên nhân được lành bệnh.

Văn phòng bác bỏ nhiều lời khai không đáp ứng được các tiêu chuẩn vừa kể.

Sau đây là số liệu các phép lạ Đức Mẹ Lộ Đức: 1858-1870: 7 trường hợp / 1908-1913: 33 / 1946-1965: 22 / 1976-1978: 2 / 1989: 1 / 1999: 1 / 2005: 1 / 2011: 1.

Ngoài phòng khám bệnh khoa học của các bác sĩ, vào năm 1905, Hội Đồng Giám Mục cũng đã thành lập một ủy ban điều tra chính thức của giáo quyền nhằm phân quyết những trường hợp nào là phép lạ, trường hợp nào là không. Ủy ban làm việc môt cách cẩn thận và vô tư theo cách thức của một tòa án. Những trường hợp được tuyên bố là phép lạ thì không thể hồ nghi gì được nữa. Từ năm 1905 đến 1913, ủy ban này đã công bố 32 phép lạ thực.

Như vây, phòng khám nghiệm của các y sĩ cũng như ủy ban các giám mục đều đã xác nhận tại Lộ Đức đã có những trường hợp khỏi bệnh cách lạ lùng. Trong tạp chí Études ấn hành năm 1909, linh mục Teilhard de Chardin đã đưa ra quan điểm của Giáo hội về phép lạ Lộ Đức như sau: ‘‘Các phép lạ Lộ Đức là các sự kiện không thể chối cãi được, chứng minh tác động sáng tạo của Thiên Chúa.’’

(nguồn: Vietcatholic news).

2.Phép lạ bởi đâu?

Những người không tin có Thiên Chúa khi đứng trước những trường hợp lạ lùng khoa học không thể giải thích được, đã đem ra rất nhiều lý lẽ để phủ nhận sự can thiệp của Thiên Chúa như sau:

-Khỏi bệnh vì nguyên nhân tự nhiên: Vì trong nước suối ở hang Lộ Đức có pha lẫn một thứ chất hóa học có năng lực chữa được một số bệnh tật.

Nhưng thực sự, khi đem phân chất thì kết quả cho thấy nước suối ấy cũng chỉ là một thứ nước lã bình thường như bao thứ nước khác, không có thêm một chất nào khác có thể chữa bệnh cả. Đàng khác, có nhiều trường hợp bệnh nhân không xuống đến nước, cũng không uống chút nước ấy, thì bảo khỏi bệnh tại nước thế nào được?

-Khỏi bệnh là vì lý do tâm lý: Vì quá tin và muốn được khỏi cách mãnh liệt, nên đã ám thị mình đến độ trở thành sự thực.

Nhưng nếu tin tưởng và ám thị có thể chữa được bệnh, thì nếu muốn được khỏi, bệnh nhân trước hết đã phải biết tin, biết ám thị. Thế mà có nhiều trường hợp trẻ con chưa có trí khôn, chưa biết gì hết mà vẫn được khỏi nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ hay người khác, thì khỏi bệnh đâu phải tại tin hay tại ám thị. Thực ra, ám thị cũng có thể có đôi chút ảnh hưởng đến một vài thứ bệnh tâm lý, đau thần kinh, điên loạn, chứ không có thể chữa được các bệnh do vi trùng hay siêu vi trùng gây ra như: Bệnh phong cùi, ung thư, thổ huyết, lao phổi…

-Khỏi bệnh là vì quy luật tự nhiên: do ảnh hưởng của một thứ quy luật tự nhiên bí mật nào đó chi phối mà người ta chưa khám phá ra:

Nhưng nếu vậy thì luật ấy phải có tác dụng điều hòa, đồng nhất, bất di dịch, cho dù người ta có biết hay không biết thì luật đó vẫn tác dụng. Hễ cứ hội đủ điều kiện khách quan là đương nhiên kết quả phải xảy ra. Chẳng hạn, người mù trước làm thế nào để được khỏi mù thì các người sau cứ làm đúng như thế sẽ đương nhiên được sáng mắt. Nhưng ở Lộ Đức thì tình trạng lại khác hẳn: Có người được khỏi khi tắm, người khác thì khỏi khi đang cầu nguyện vào những thời gian khác nhau trong ngày: sáng, trưa, chiều, tối… Ở điều kiện nào cũng có người được khỏi. Có những trường hợp hai người bệnh cùng trong một hoàn cảnh, cùng một thứ bệnh giống nhau, mà người thì được khỏi, người thì không. Như vậy, không thể nói có một luật bí mật được.

-Khỏi bệnh do có sự lừa dối nào đó: cần phải chờ sự phán quyết của các nhà bác học hoàn toàn vô tư.

Carrel, một vị tiến sĩ y khoa, giáo sư giải phẫu học tại đại học Lyon Pháp, trước khi đi Lộ Đức quan sát tận nơi cũng đã nghĩ như vậy. Ông cho rằng: có lẽ các nhà khoa học chưa khám nghiệm kỹ đủ, có thể còn một vài sơ suất chưa cân nhắc tường tận. Theo Carrel: Ngoài những sự kiện khoa học tìm ra và kiểm chứng rõ ràng thì không còn chân lý nào khác có giá trị. Không thể có phép lạ được! Nhưng trước sự khỏi bệnh lạ thường của Marie Ferrand, một cô gái đang hấp hối vì bệnh lao ruột ở giai đoạn chót mà các bác sĩ đều từ chối không dám mổ cho cô, mà Carrel đã chứng kiến tận mắt từ khi cô gái này mới đến Lộ Đức cho tới lúc khỏi bệnh tức khắc mà không thể cắt nghĩa được. Ông đã chịu khuất phục và ghi chú trong nhật ký: “Thật là một chuyện không có thể, nhưng có thực. Quả là bất ngờ: một phép lạ vừa mới xảy ra.” Ngay lúc đó không còn tin ở mình, Carrel lập tức mời hai bác sĩ bạn ông tới chứng kiến và các ông này cũng đều chứng nhận: “Cô này không còn bệnh gì hết, cho cô ra khỏi nhà thương.”

Việc bác sĩ vô thần Carrel thay đổi tâm hướng đã nói lên một sự thật mà con người dù yêu sách đến đâu cũng phải suy nghĩ: Quả thật, có Đấng Tạo Hóa, có Thiên Chúa. Ngài là Đấng đã thiết lập trật tự trong vũ trụ thiên nhiên, thì trong môt vài trường hợp đặc biệt, Ngài cũng có thể để xảy ra ngoài trật tự ấy. Đó chính là phép lạ vậy.

TÓM LẠI:

Trước những trật tự lạ lùng trong vũ trụ thiên nhiên, trước việc sự sống tràn đầy trên mặt đất, trước những luật luân lý in sâu trong tâm hồn mỗi người, trước những phép lạ mà khoa học đành bất lực không thể tìm ra lời giải thích hợp lý… Chúng ta phải công nhận có ĐẤNG TẠO HÓA; CÓ THIÊN CHÚA SÁNG TẠO. Chính Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ và đã an bài chúng theo một trật tự chung mà khoa học gọi là định luật thiên nhiên. Chính Ngài là nguồn gốc của sự sống, đã tạo thành mọi sinh vật từ thấp kém đến cao quý nhất, và đã phú cho chúng những bản năng riêng để tự phát sinh và tồn tại. Cũng chính Ngài là tác giả của bộ luật luân lý tự nhiên in sẵn trong tâm trí con người từ khi sinh ra. Sau cùng, Ngài còn là tác nhân của những trường hợp đặc biệt xảy ra ngoài trật tự tự nhiên mà khoa học không thể giải thích được.

Như vậy, tuy khoa học không thể chứng minh có Thiên Chúa một cách trực tiếp vì ngoài phạm vi nghiên cứu của nó, nhưng khoa học vẫn có thể góp phần quan trọng trong việc tỏ rõ kỳ công của Ngài. Chính nhờ những hiểu biết rõ ràng chính xác do khoa học đem lại, con người dễ dàng sử dụng trí khôn suy luận để nhận ra có bàn tay quyền năng, có trí khôn siêu việt đã xếp đặt và tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. Bàn tay và trí khôn ấy là của Thiên Chúa Tạo Hóa.

Newton, một nhà thiên văn học lừng danh đã dám mạnh dạn lên tiếng quả quyết: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa ở đầu thiên lý kính của tôi”. P.Termier cũng cho biết: “Mọi khoa học đều chuẩn bị trí khôn ta nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào cũng thế, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, hỗn hợp, khuyết điểm… có cùng đích và rất phức tạp. Do đó, nhà khoa học sẽ dễ dàng có y tưởng về một Đấng Tạo Hóa bất biến, tự hữu, đơn thuần, hoàn hảo, và là Đấng duy nhất an bài mọi sự. Chính vì thế người ta bảo: KHOA HỌC DẪN ĐẾN THIÊN CHÚA. VŨ TRỤ VẬT CHẤT CHÍNH LÀ BÍ TÍCH CỦA THIÊN CHÚA”.

3. THẢO LUẬN: 1) Bạn có nên tranh cãi với người vô tín về sự hiện hữu của Thiên Chúa không ? Tại sao ? 2) Bạn nên làm gì khi có người yêu cầu trình bày giáo lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa để giúp họ thêm xác tín vào quyền năng của Ngài ?

4. NGUYỆN CẦU: Lạy Thiên Chúa Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất. Xin cho chúng con thêm xác tín vê sự hiện hữu cua Chúa trong vũ trụ thiên nhiên vanơi mỗi chúng con. Xin cho chúng con năng cầu xin Chúa ban thêm đức tin, giống như người cha có đứa con bị quỷ câm ám đã thưa với Đức Giê-su: “Tôi tin ! Nhưng xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24).

LM ĐAN VINH - HHTM

 

 

PHỤ CHÚ:

NĂM ĐƯỜNG LỐI CHỨNG MINH CÓ THIÊN CHÚA

CỦA THÁNH TÔMA TIẾN SĨ.

Thánh Thomas d’ Aquin (1225-1274), một vị tiến sĩ thần học rất nổi tiếng thời trung cổ đã đề ra 5 đường lối chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa như sau:

1.Sự chuyển động của vũ trụ chứng minh có Thiên Chúa:

Bất cứ một vật nào đang chuyển động cũng phải lệ thuộc vào một động lực khác. Chẳng hạn: một chiếc xe đang chạy là do người tài xế đã rồ máy và điều khiển tay lái, một viên đạn bay ra khỏi nòng súng, một nồi nước đang sôi lên sung sục là do tác dụng của lửa làm nóng nước lên. Vậy thì khi nhìn vào vũ trụ, ta thấy có sự chuyển động của các hành tinh, thì cũng phải có một động lực nào đó đã ảnh hưởng tới và làm cho chúng xoay vần di chuyển trong không gian. Động lực ấy chính là Thiên Chúa.

2.Luật nhân quả chứng minh có Thiên Chúa:

Nhìn vào vũ trụ vật chất, ta nhận thấy có sự liên hệ mật thiết giữa vật này với vật kia, vật có sau lệ thuộc vào một nguyên nhân có trước. Chẳng han: có khói là đã phải có lửa, có con là đã phải có cha mẹ… Nếu cứ suy luận lên mãi thì cuối cùng phải đi đến một nguyên nhân tự mình hiện hữu, không bị lệ thuộc vào một nguyên nhân nào khác mới hợp lý. Nguyên nhân tự hữu ấy là Thiên Chúa.

3.Sự sắp xếp trật tự minh chứng có Thiên Chúa:

Kinh nghiệm cho ta biết: sự may rủi bao giờ cũng đi đôi với vô trật tự và hỗn độn. Chẳng hạn: Lấy 24 chữ cái A B C D… viết vào các mảnh giấy rồi bỏ trong một chiếc hộp, sau đó lắc hộp và đổ các mảnh giấy ra. Không bao giờ bạn đạt được thứ tự như cũ: A B C D… Trái lại, bất cứ vật gì ta thấy được xếp đặt trât tự thì đều là kết quả của một trí khôn nào đó. Chẳng hạn: nhìn xem một vườn cây ăn trái được sắp đặt thứ tự, cây cối tùy loại mọc ngay hàng thẳng lối… ta quả quyết đã phải có một trí khôn làm chủ vườn cây ấy. Cũng vậy, khi quan sát vũ trụ thiên nhiên, ai ai cũng thấy có sự xếp đặt kỳ diệu từ cái cực to là các hành tinh, đến cái cực nhỏ như nguyên tử; Từ sự sống thấp nơi thảo mộc cây cối đến sự sống phức tạp, trổi vượt nhất nơi loài người… Từ đó, họ sẽ đi đến kết luận: Phải có một Đấng nào đó toàn năng siêu việt… đã an bài cho vạn vật hình thành và phát triển hài hòa trật tự. Đấng toàn năng ấy chính là Thiên Chúa.

4.Bậc thang giá trị nơi vạn vật minh chứng có Thiên Chúa:

Khi quan sát vạn vật trong vũ trụ ta thấy chúng có những bậc thang giá trị khác nhau: Có vật thì không mấy thẩm mỹ, có vật lại rất mỹ miều và đáng yêu, có vật ít hữu ích nhưng cũng có vật lại ích lợi rất nhiều, có vật lại tầm thường, nhưng cũng có những vật thật là cao quý…từ đó, ta suy ra: phải có một vị nào đó có mọi điều tốt đẹp, cao quý nhât…làm tiêu chuẩn cho vạn vật trong vũ trụ hữu hạn này. Đấng tuyệt đối ấy chính là Thiên Chúa.

5.Cứu cánh của vạn vật minh chứng có Thiên Chúa:

Cứu cánh nghĩa là cùng đích, là mục đích chính yếu cuối cùng tuyệt đối. Mỗi người chúng ta đều tự nhiên cảm thấy có ước muốn, khát vọng vô bờ bến. Không một sự gì đã đạt đươc lại có thể làm ta thỏa mãn và đem lại cho ta hạnh phúc hoàn toàn. Do đó, bên trên mọi điều mong ước, về vật chất cũng như tinh thần, ta ước muốn một điều gì bền bỉ, hoàn hảo, vĩnh viễn… Sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người mong muốn đạt tới ấy gọi là cứu cánh của con người. Cứu cánh ấy không thể có trong vạn vật ở trần gian mà chỉ có được ở nơi Thiên Chúa. Chính sự khát vọng tuyệt đối, sự hướng về cứu cánh tuyệt đối ấy là bằng chứng cho thấy có Thiên Chúa. Thánh Augustin nói: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng lên con hướng về Chúa, nên tâm hồn con luôn xao xuyến mãi cho tới khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”.

TÓM LẠI: Với trí khôn suy luận từ sự vận chuyển của các vật bị động đến một động lực không bị động; Từ các vật không thể tự mình mà có đến một Đấng Tự Hữu; Từ sự trật tự của vũ trụ đến một trí khôn toàn năng đã an bài xếp đặt; Từ các bậc thang giá trị của vạn vật đến một giá trị tuyệt đối vô hạn; Từ sự mong ước tuyệt đối đến một Đấng là Cứu Cánh mà vạn vật hướng về… Tất cả đã chứng minh cho chúng ta một điều không thể chối cãi được. Đó là: vũ trụ vạn vật đã do Thiên Chúa tạo dựng nên. Nhưng Thiên Chúa ở đây vẫn chỉ là một vị Thiên Chúa trừu tượng, xa xôi, không có liên hệ bao nhiêu với mỗi người chúng ta. Đây là Thiên Chúa của các triết gia mà thôi. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là một Thiên Chúa của tình thương, liên hệ chặt chẽ với loài người và đã bày tỏ bản tính của Ngài qua các tổ phụ, các tiên tri Cựu Ước, và qua chính Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô thời Tân Ước. Tất cả những điều Thiên Chúa mặc khải ấy đã được chép lại thành môt bộ sách gọi là Thánh Kinh. Do đó, ngoài việc dùng lý trí suy luận để biết có Thiên Chúa, con người còn có bổn phận phải tìm hiểu học hỏi Thánh Kinh để biết Chúa là ai? , nhờ đó sẽ tỏ lòng biết ơn bằng cách tôn thờ, cảm tạ, yêu mến, cầu xin và vâng Lời Ngài.

 

(theo www.simonhoadalat.com )

---------------------------------------------------------------------------------------------------

Phần 2:

Các Luận Chứng về Sự Hiện Hữu của Thiên Chúa

Nhiều người, cả người tín hữu lẫn người vô tín, nghi ngờ về việc sự hiện hữu của Thiên Chúa có thể được chứng minh hoặc ngay cả bàn luận đến. Nhưng không ai có thể nghi ngờ một cách hữu lý việc lưu tâm đến các luận chứng này có một vị trí nhất định trong bất kỳ cuốn sách về hộ giáo nào. Đó là bởi rất nhiều người tin rằng những luận chứng như thế là điều có thể, và một số trong các luận chứng đó thực sự hữu hiệu.

Họ cũng tin rằng một luận chứng hợp lý và hiệu quả về sự hiện hữu của Thiên Chúa là bước quan trọng đầu tiên trong việc mở ra cho tâm trí khả thể đi đến niềm tin.

Bạn có thể không cảm thấy rằng các luận chứng này có giá trị thực sự đối với bạn. Bạn có thể may mắn có được một cảm thức sống động về sự hiện diện của Thiên Chúa – bạn phải biết ơn sâu xa về điều này. Nhưng đó không có nghĩa là bạn không có nghĩa vụ phải suy nghĩ về những luận chứng. Vì nhiều người không được may mắn như thế. Những luận chứng này được dành cho họ – hay ít nhất một số người trong nhóm họ – để họ có được một loại trợ giúp mà họ thực sự cần đến. Thậm chí bạn cũng có thể được yêu cầu cung cấp cho họ trợ giúp đó.

Luận chứng về Nguyên nhân tác thành

Chúng ta nhận thấy rằng một số sự vật làm cho những sự vật khác hiện hữu (bắt đầu hiện hữu, tiếp tục hiện hữu, hoặc cả hai). Ví dụ, một người chơi đàn piano là nguyên nhân gây ra âm thanh mà chúng ta nghe thấy. Nếu anh ta dừng lại, thì âm thanh cũng dừng.

Bây giờ câu hỏi được đặt ra là: Phải chăng mọi vật hiện hữu hiện tại là do tác động của những sự vật khác? Giả sử điều này đúng, nghĩa là, giả sử rằng không có Hữu thể không có nguyên nhân, tức là không có Thiên Chúa thì không có gì tồn tại cả. Theo thuyết không có Thiên Chúa, tất cả mọi sự vật cần phải có một nguyên nhân hiện tại nằm bên ngoài bản thân chúng để tồn tại. Vì thế, ngay lúc này đây, tất cả mọi sự vật, bao gồm tất cả những sự vật mà chúng làm cho những sự vật khác hiện hữu, cần phải có một nguyên nhân. Chúng chỉ có thể cho sự hiện hữu bao lâu chúng nhận sự hiện hữu. Do đó, dựa trên giả thuyết này, mọi sự vật hiện hữu cần được làm cho hiện hữu.

Nhưng điều gì là nguyên nhân cho mọi sự vật hiện hữu? Vượt khỏi mọi sự vật hiện hữu thì chỉ có thể là hư không. Nhưng điều đó là vô lý: vì tất cả mọi thực tại là phụ thuộc – nhưng lại không phụ thuộc vào cái gì sao? Như thế, giả thuyết mọi hữu thể đều có nguyên nhân, rằng không có Hữu thể Không có nguyên nhân, là vô lý. Vì vậy, phải có một cái gì đó không có nguyên nhân, một cái gì đó mà tất cả mọi sự vật cần có một nguyên nhân tác thành hiện hữu tùy thuộc vào nó.

Sự hiện hữu giống như một món quà được trao ban từ nguyên nhân đến kết quả. Nếu không ai quà tặng thì món quà không thể truyền đến một chuỗi những người nhận, dù chuỗi đó dài hay ngắn. Nếu mọi người phải mượn một cuốn sách nào đó, nhưng không ai thực sự nó, thì không ai sẽ nhận được nó bao giờ cả. Nếu không có Thiên Chúa, Đấng có sự hiện hữu bởi tự bản chất đời đời riêng của Ngài, món quà hiện hữu không thể được truyền xuống chuỗi các thụ tạo và chúng ta không bao giờ có thể nhận được nó. Nhưng chúng ta lại nhận được nó; chúng ta hiện hữu. Như vậy phải có một Thiên Chúa: một Hữu thể Không nguyên nhân, Đấng không phải nhận sự hiện hữu như chúng ta – và như mọi mắc xích khác trong chuỗi những người nhận.

Luận chứng về Sự thay đổi

Thế giới vật chất mà chúng ta biết là một thế giới của sự thay đổi. Cô gái trẻ này cao 1m59, nhưng cô ta không luôn luôn ở chiều cao đó. Cây sồi cổ thụ trước mắt chúng ta lớn lên từ một hạt rất nhỏ. Khi sự vật hiện hữu trong một tình trạng nào đó, ví dụ xét về mặt kích cỡ trưởng thành, thì tình trạng đó không tự nó làm cho nó hiện hữu. Cho đến khi nó đi vào hiện hữu thì nó không hiện hữu, và nếu nó chưa hiện hữu, nó không thể gây nên bất cứ điều gì.

Còn về sự vật mà nó thay đổi, mặc dầu nó có thể là cái nó sẽ là, thì nó chưa là cái nó sẽ là. Ngay bây giờ nó thực sự hiện hữu trong tình trạng này (một hạt); nó sẽ thực sự hiện hữu trong tình trạng kia (một cây sồi to lớn). Nhưng nó chưa thực sự trong tình trạng đó bây giờ. Nó chỉ có tiềm năng đi đến tình trạng đó.

Một câu hỏi được nêu lên: Để giải thích sự thay đổi, chúng ta có thể xem xét sự vật đang thay đổi hay phải xem xét cả những vật khác mà cũng liên quan đến nó? Rõ ràng, những sự vật khác phải được gộp vào. Không gì có thể tự nó cho cái nó không có, và sự vật đang thay đổi không thể có ngay bây giờ cái nó rồi sẽ có. Kết quả của sự thay đổi không có thể hiện hữu thực sự trước sự thay đổi. Sự vật đang thay đổi bắt đầu với chỉ tiềm năng để thay đổi, nhưng nó cần được hiện thể hóa bởi những sự vật khác bên ngoài nếu tiềm năng đó được làm thành hiện thực. Ngược lại nó không thể thay đổi.

Không gì tự nó thay đổi. Xét mặt bên ngoài, những sự vật tự chuyển động, như cơ thể động vật, được chuyển động bởi ước muốn hay ý chí – các sự vật không gì hơn chỉ là các phân tử. Và khi động vật hay con người chết, các phân tử vẫn còn, nhưng cơ thể không còn chuyển động bởi vì ước muốn hay ý chí không còn có để điều khiển nó.

Giờ đây một câu hỏi khác xa hơn: phải chăng những sự vật khác bên ngoài sự vật đang thay đổi cũng thay đổi? Phải chăng tác nhân làm chuyển đông cũng chuyển động? Nếu thế, ngay bây giờ tất cả chúng chắc chắn cần được tác động bởi những sự vật khác, hoặc nếu không chúng không thể thay đổi. Bất chấp có bao nhiêu sự vật trong một chuỗi các sự vật đi chăng nữa thì mỗi sự vật cần những sự vật khác bên ngoài chính nó để hiện thể hóa tiềm năng của nó dẫn đến sự thay đổi.

Vũ trụ là tổng thể của tất cả những sự vật di chuyển này, dù là rất nhiều. Toàn bộ vũ trụ là trong quá trình thay đổi. Nhưng chúng ta đã thấy rằng sự thay đổi trong bất kỳ hiện thể nào đòi hỏi một lực bên ngoài để hiện thể hóa nó. Vì vậy, có một lực ngoài (bên trên) vũ trụ, một hữu thể thực siêu việt trên vũ trụ. Hữu thể này được hiểu là “Thiên Chúa.”

Tóm lại, nếu không có gì bên ngoài vũ trụ vật chất, thì không có gì có thể làm cho vũ trụ thay đổi. Nhưng nó thay đổi. Do đó phải có một cái gì đó ngoài vũ trụ vật chất. Nhưng vũ trụ là tổng thể của tất cả vật chất, không gian và thời gian. Ba phạm trù này phụ thuộc vào nhau. Vì thế hữu thể bên ngoài vũ trụ này thì ở ngoài vật chất, không gian và thời gian. Nó không là một sự vật đang thay đổi, nó là Nguồn không thay đổi của sự thay đổi.

Luận chứng về Thiết Kế

Các luận chứng về Thiết Kế có sức lôi cuốn lớn lao và lâu dài. Hầu hết mọi người thừa nhận rằng việc suy tư phản tỉnh về trật tự và vẻ đẹp của thiên nhiên đụng chạm đến phần rất sâu thẳm bên trong chúng ta. Nhưng liệu rằng trật tự và vẻ đẹp đó có là sản phẩm của một thiết kế thông minh và có chủ đích? Đối với những người theo thuyết hữu thần thì câu trả lời là đúng như thế. Các luận chứng cho sự thiết kế là những nỗ lực biện hộ cho câu trả lời này; cho thấy tại sao nó là câu trả lời hợp lý nhất được đưa ra. Các lập luận này được xây dựng trong những cách thức cũng đa dạng phong phú như kinh nghiệm mà ở đó chúng được bắt rễ. Điều sau đây cho thấy điểm cốt lõi hay cái nhìn trọng tâm.

1. Vũ trụ này tỏ lộ một lượng tính khả tri và khôn ngoan lớn lao đến kinh ngạc, cả bên trong những sự vật chúng ta quan sát và trong cách thức những sự vật này liên quan đến những sự vật khác ngoài chúng. Nghĩa là: cách mà chúng hiện hữu hay đồng hiện hữu cho thấy một trật tự phức tạp đẹp đẽ và đều đặn ngay cả những người quan sát tầm thường nhất cũng phải ngất ngây. Chính quy luật trong tự nhiên đối với nhiều hữu thể khác nhau làm việc cùng nhau đưa đến cùng một mục đích có giá trị – ví dụ – các cơ quan trong cơ thể làm việc cho sự sống và sức khỏe của chúng ta.

2. Hoặc trật tự khả tri này là sản phẩm của sự ngẫu nhiên hoặc là của một thiết kế thông minh.

3. Không phải ngẫu nhiên. Vì cái kém hơn (không trật tự) không thể làm nên cái tốt hơn(trật tự)

4. Do đó vũ trụ là sản phẩm của một thiết kế thông minh.

5. Thiết kế này chỉ đến từ một thượng trí, một nhà thiết kế.

6. Do đó vũ trụ là sản phẩm của một Nhà thiết kế thông minh.

Câu hỏi: Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu cái trật tự chúng ta kinh nghiệm được chỉ là một sản phẩm của trí óc chúng ta? Cho dù chúng ta không thể nghĩ được, hay nhìn được trong tâm trí mình tình trạng hỗn mang và mất trật tự cao độ nơi thực tại, thì thực tại vẫn có thể là rất hỗn mang và mất trật tự thì sao?

Trả lời: Trí óc của chúng ta là phương tiện duy nhất ngang qua nó chúng ta có thể hiểu biết về thực tại. Chúng ta không có cách nào khác. Nếu chúng ta đồng ý với nhau rằng có những cái không thể tồn tại trong tư tưởng chúng ta, thì không thể đi tiếp và nói rằng nó có thể tồn tại trong thực tế. Khi đó chúng ta sẽ nghĩ về điều mà chúng ta khăng khăng là không thể được nghĩ đến.

Luận chứng Kalam

Từ Kalam trong tiếng Ả Rập nghĩa đen là “diễn thuyết,” nhưng nó biểu thị một loại thần học thuộc lãnh vực triết học nào đó – chứa đựng những chứng minh cho rằng thế giới này không thể có từ muôn thuở, vì thế nó phải được Thiên Chúa tạo nên. Kiểu chứng minh này có sức lôi cuốn lớn lao và lâu đời cho người Kitô hữu lẫn người Hồi giáo. Hình thức của nó thì đơn giản và dễ hiểu.

1. Bất cứ cái gì bắt đầu tồn tại đều có một nguyên nhân để nó đi vào hiện hữu.

2. Vũ trụ đã bắt đầu tồn tại.

3. Vì vậy, vũ trụ có một nguyên nhân để nó đi vào hiện hữu.

Chúng ta thừa nhận tiền đề đầu tiên. (Hầu hết mọi người (ngoại trừ những người trong nhà thương điên), thậm chí cả người vô học, xem nó không chỉ đúng nhưng chắc chắn và hiển nhiên đúng.)

Tiền đề thứ hai có đúng không? Phải chăng vũ trụ – tập hợp mọi sự vật bị giới hạn bởi không gian và thời gian – đã bắt đầu tồn tại? Tiền đề này gần đây đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ khoa học tự nhiên – từ cái gọi là vũ trụ luận Big Bang. Nhưng cũng có những tranh luận triết học ngay trong chính sự ủng hộ đó. Liệu rằng một nhiệm vụ vô hạn có bao giờ có thể được thực hiện hoặc hoàn tất hay không? Để đạt được một mục đích nhất định, nếu có nhiều vô cùng những bước phải đứng trước đó, thì có thể đến bao giờ mới đạt được mục đích? Tất nhiên câu trả lời là không, không ngay cả với một thời gian vô hạn. Vì một thời gian vô hạn sẽ không có kết thúc, tương tự như các bước. Nói cách khác, không bao giờ đạt được mục đích. Nhiệm vụ sẽ không bao giờ hoặc có thể bao giờ được hoàn tất.

Nếu vũ trụ luôn luôn đã là như thế, thì nó có từ muôn thuở. Nếu nó có từ muôn thuở, thì một lượng vô hạn về thời gian sẽ phải đã trôi qua trước ngày hôm nay. Và vì vậy một lượng vô hạn ngày đã phải được hoàn tất – ngày này tiếp nối ngày kia, một chút thời gian được thêm vào những gì đã đi trước, để cho ngày hiện tại đến. Nhưng điều này hoàn toàn tương ứng với vấn đề nhiệm vụ vô hạn.

Luận chứng bản thể học

Luận chứng bản thể học được đưa ra bởi thánh Anselmô thành Canterbury (1033-1109). Hầu hết những người đầu tiên nghe đến nó thì bị cám dỗ bỏ ngay lập tức như là một điều khó hiểu thú vị, nhưng các nhà tư tưởng nổi tiếng của mọi thời đại, trong đó có chúng tôi, đứng lên bảo vệ nó. Đây là bằng chứng mạnh mẽ nhất thuộc lãnh vực triết học về sự hiện hữu của Thiên Chúa; vị trí danh giá của nó không phải là ở lòng mộ đạo bình dân nhưng đúng hơn là ở sách giáo khoa và tạp chí chuyên nghiệp. Chúng tôi gồm tóm nó với sự thảo luận tối thiểu, không phải vì chúng tôi nghĩ nó đáng thuyết phục hay không thể bác bỏ được nhưng vì muốn cho đầy đủ.

1. Một sự vật hiện hữu cả trong tâm trí và thực tế thì lớn hơn khi nó chỉ ở trong tâm trí.

2. Thiên Chúa là “một hữu thể mà người ta không thể nghĩ được có một cái gì lớn hơn.”

3. Giả sử rằng Thiên Chúa hiện hữu trong tâm trí nhưng không có trong thực tế.

4. Lúc đó, một cái lớn hơn Thiên Chúa có thể được nghĩ đến (cụ thể là, một hữu thể có tất cả những phẩm chất mà tư tưởng về Thiên Chúa của chúng ta thêm vào sự hiện hữu thực sự).

5. Nhưng điều này là không thể, vì Thiên Chúa là “một hữu thể mà người ta không thể nghĩ được có một cái gì lớn hơn.”

6. Do đó Thiên Chúa hiện hữu trong tâm trí và trong thực tế.

Luận chứng về luân lý

1. Tuân theo tiếng nói lương tâm đích thực là một thực tế. Chúng ta bị bó buộc thực sự, đích thực và khách quan phải làm điều tốt và tránh điều ác.

2. Hoặc là quan điểm vô thần về thực tại là đúng, hoặc là quan điểm “tôn giáo” là đúng.

3. Nhưng người vô thần không tương hợp với việc tuân theo tiếng nói lương tâm.

4. Do đó quan điểm “tôn giáo” về thực tại là đúng đắn.

Chúng ta cần làm rõ tiền đề đầu tiên. Tiền đề này không có nghĩa rằng chỉ đơn thuần là chúng ta có thể thấy những người xung quanh có những trách nhiệm nhất định. Cũng không có nghĩa rằng có nhiều người đã nghĩ là họ đã bị bó buộc phải làm những điều nhất định (như mặc áo người ở trần) và họ phải tránh làm những điều khác (như phạm tội ngoại tình). Tiền đề đầu tiên khẳng định một điều gì đó hơn nữa: cụ thể là, chúng ta thực sự bị ràng buộc và trách nhiệm của chúng ta phát sinh từ cách mà những sự vật thực sự là, mà không chỉ đơn giản là từ những khát vọng hoặc những sắp đặt chủ quan của chúng ta. Nói cách khác, các giá trị đạo đức hay các bổn phận – không đơn thuần là niềm tin vào các giá trị đạo đức – là những hiện thực khách quan.

Ngay bây giờ, khi bàn đến hiện thực về việc tuân phục theo lương tâm, thì một vấn đề tự nhiên nảy sinh. Liệu hình ảnh về thế giới được trình bày bởi người vô thần có phù hợp với hiện thực này hay không? Câu trả lời là không. Người vô thần không bao giờ mệt để nói cho chúng ta biết rằng chúng ta là những sản phẩm ngẫu nhiên của những chuyển động vật chất, một chuyển động không có mục đích và mù mờ đối với mọi nỗ lực của con người. Chúng ta nên dùng chính ngôn từ và đòi hỏi của họ. Xét điểm này, một cách chính xác thì sự thiện đạo đức bắt nguồn từ điều gì? Tuân theo tiếng nói lương tâm khó có thể được bắt nguồn từ một chuyển động vật chất không rõ mục đích.

Giả sử chúng ta nói nó không được bắt nguồn từ cái gì sâu hơn cả ý chí và khát vọng của con người. Trong trường hợp đó, chúng ta không có tiêu chuẩn đạo đức nào dựa vào đó mà đánh giá những khát vọng của con người. Vì mỗi khát vọng sẽ khởi đi từ cùng một nguồn tối hậu – vật chất không mục đích, không lòng thương xót. Và như thế, điều gì trở nên sự bó buộc? Theo quan điểm này, nếu tôi nói có một bổn phận để nuôi người đói, đó là tôi nêu ra một thực tế về mong muốn và ước vọng của chính tôi chứ không phải điều gì khác. Tôi sẽ nói rằng tôi muốn người đói được ăn, và rằng tôi chọn hành động theo ước muốn đó. Nhưng điều này trở nên một sự thừa nhận rằng tôi cũng như mọi người không thực sự bị bó buộc cho người đói ăn, và rằng trên thực tế, không có bất kỳ ai có bổn phận thực sự nào cả. Do đó, quan điểm vô thần về thực tại là không tương hợp với việc tuân theo tiếng nói lương tâm chân thực.

Luận chứng từ Lương tâm

Ngày nay, vì chủ nghĩa chủ quan về đạo đức rất phổ biến nên các luận chứng về đạo đức phải mang lại hiệu quả, vì nó không giả định trước chủ nghĩa tương đối về đạo đức. Con người thời nay thường nói họ tin rằng không có nghĩa vụ ràng buộc về đạo đức một cách phổ quát, và rằng tất cả chúng ta phải làm theo tiếng nói lương tâm của riêng mình. Nhưng chính thừa nhận đó là đủ để chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa.

Điều đáng chú ý là không có ai, thậm chí cả những người hoàn toàn theo chủ nghĩa chủ quan nhất, lại tin rằng việc cố ý không tuân theo tiếng nói lương tâm của mình là điều tốt cả. Thậm chí nếu lương tâm của nhiều người khác nhau nói cho họ biết phải làm hay tránh những điều hoàn toàn khác nhau, thì vẫn còn một tiêu chuẩn tuyệt đối về đạo đức cho tất cả mọi người: không bao giờ không tuân theo tiếng nói lương tâm của mỗi người.

Bây giờ, bởi đâu mà lương tâm đã nhận được một thẩm quyền tuyệt đối như thế – một thẩm quyền được thừa nhận ngay cả bởi những người theo chủ nghĩa chủ quan và khách quan về đạo đức? Chỉ có bốn khả năng: (1) từ một cái gì đó kém hơn tôi (thiên nhiên); (2) từ tôi (cá nhân); (3) từ những người khác ngang bằng với tôi (xã hội); hoặc (4) từ một cái gì đó ở trên tôi (Thiên Chúa). Hãy xem xét mỗi một trong các khả năng này theo thứ tự.

1. Làm thế nào tôi có thể hoàn toàn tuân theo một cái gì đó kém hơn tôi, ví dụ, theo bản năng động vật hoặc theo nhu cầu thực tiễn cho sự sống còn về mặt vật chất?

2. Làm thế nào tôi có thể bó buộc phải tuân theo bản thân mình một cách tuyệt đối? Tôi có là tuyệt đối không? Tôi có quyền đòi hỏi bất kỳ ai, ngay cả bản thân mình vâng phục cách tuyệt đối không? Và nếu tôi là một người tự khóa bản thân mình trong nhà tù của sự bó buộc, tôi cũng có thể cho bản thân mình ra ngoài, nên sẽ phá hủy cái tuyệt đối của bó buộc mà chúng ta đã thừa nhận như là tiền đề của chúng ta.

3. Làm thế nào xã hội có thể bó buộc tôi được? Những người ngang bằng tôi lấy quyền gì mà áp đặt những điều đó lên tôi? Liệu số lượng làm nên chất lượng không? Liệu một triệu con người có làm cho một điều tương đối trở thành tuyệt đối không? “Xã hội” là Thiên Chúa hay sao?

4. Nguồn gốc duy nhất của việc tuân theo tiếng nói lương tâm cách tuyệt đối là một cái gì đó vượt trội trên tôi. Điều này gắn chặt với ý chí của tôi về mặt đạo đức, với những đòi hỏi chính đáng đối với việc vâng phục hoàn toàn.

Vì thế, Thiên Chúa hay một điều gì như Thiên Chúa là nguồn gốc và nền tảng duy nhất xứng đáng với việc tuân theo tiếng nói lương tâm cách tuyệt đối, tất cả chúng ta cảm thấy phải vâng phục lương tâm. Vì thế, lương tâm chỉ có thể được giải thích như tiếng nói của Thiên Chúa trong linh hồn.

Luận Chứng từ Ước muốn

1. Mọi ước muốn tự nhiên và bẩm sinh trong chúng ta tương ứng với những đối tượng có thực vốn có thể làm thỏa mãn ước muốn đó.

2. Nhưng tồn tại trong chúng ta một ước muốn bẩm sinh mà không gì trong thời gian, không gì trên mặt đất này, không một thụ tạo nào có thể làm thỏa mãn.

3. Do đó, phải tồn tại một điều gì đó vượt trên thời gian, trên mặt đất và trên các thụ tạo mới có thể làm thỏa mãn ước muốn này.

4. “Điều gì” ở đây là cái mà người ta gọi là “Thiên Chúa” và “sự sống với Thiên Chúa vĩnh viễn.”

Tiền đề đầu tiên ngụ ý một sự phân biệt các ước muốn thành hai loại: do bẩm sinh và do điều kiện bên ngoài, hay tự nhiên và không tự nhiên. Chúng ta ước muốn tự nhiên những thứ như thức ăn, thức uống, tình dục, giấc ngủ, kiến thức, tình bạn và vẻ đẹp; và chúng ta xa tránh cách tự nhiên những thứ như sự chết đói, cô đơn, vô tri và xấu xí. Chúng ta cũng mong muốn (nhưng không phải bẩm sinh hay tự nhiên) những thứ như xe thể thao, chức vụ chính trị, bay qua không khí như Siêu nhân, vùng đất Oz và một chức vô địch thế giới Red Sox.

Giờ đây có sự khác biệt giữa hai loại ước muốn. Ví dụ, chúng ta không nhận thấy rằng loại thứ hai, tức là loại không tự nhiên, thiếu hụt những trạng thái tương ứng với những ước muốn như chúng ta mong muốn cho loại thứ nhất. Không có từ nào như Ozlessness song song với sự khó ngủ. Nhưng quan trọng hơn những ước muốn tự nhiên đến từ bên trong, từ bản chất của chúng ta, trong khi những cái không tự nhiên đến từ bên ngoài xã hội, quảng cáo hay tưởng tượng. Điều khác biệt thứ hai này là lý do cho một sự khác biệt thứ ba: trong tất cả chúng ta đều có những ước muốn tự nhiên, nhưng những ước muốn không tự nhiên thì khác nhau từ người này đến người.

Sự tồn tại của những ước muốn không tự nhiên không nhất thiết có nghĩa rằng các đối tượng được mong muốn tồn tại. Một số tồn tại, một số không. Những chiếc xe thể thao tồn tại; vùng đất Oz không tồn tại. Nhưng có sự tồn tại của những ước muốn tự nhiên, trong mọi trường hợp có thể tìm thấy, có nghĩa là các đối tượng được ước muốn tồn tại. Không ai thấy có một trường hợp một ước muốn bẩm sinh tồn tại mà không có một đối tượng không tồn tại bao giờ cả.

Tiền đề thứ hai chỉ đòi hỏi cái nhìn nội tâm chân thực. Nếu ai đó chối bỏ nó và nói, “Tôi hoàn toàn hạnh phúc khi chơi với những cái bánh bùn, hoặc xe thể thao, hoặc tiền bạc, hoặc tình dục, hoặc năng lượng, chúng ta chỉ có thể hỏi, “có thực bạn như vậy không?” Nhưng chúng ta chỉ có thể mời gọi, chúng ta không thể bắt buộc. Chúng ta có thể nói đến một người như thế với lời chứng gần như phổ quát của lịch sử con người trong tất cả nền văn học vĩ đại của nó. Ngay cả triết gia vô thần Jean-Paul Sartre đã thừa nhận rằng “đến lúc người ta phải hỏi, thậm chí cả Shakespeare, cả Beethoven, ‘Đó có phải là tất cả không?”

C.S. Lewis, người sử dụng luận chứng này ở nhiều nơi, tóm tắt ngắn gọn như sau:

Mọi thụ tạo không sinh ra với những ước muốn trừ khi sự thỏa mãn cho những ước muốn này tồn tại. Một em bé cảm thấy đói; một cách tương ứng, có một điều như vậy là thực phẩm. Một vịt con muốn bơi lội; một cách tương ứng, có một điều như vậy là nước. Con người cảm thấy ham muốn tình dục; một cách tương ứng, có một điều như vậy là tình dục. Nếu tôi tìm thấy trong bản thân mình một ước muốn mà không kinh nghiệm nào trong thế giới này có thể đáp ứng, thì lời giải thích khả dĩ nhất là tôi đã được dựng nên cho thế giới khác. (Chỉ Kitô giáo, quyển 3,. chương. 10)

Luận Chứng từ Kinh Nghiệm Thẩm Mỹ

1. Có âm nhạc của Johann Sebastian Bach.

2. Như vậy, phải có một Thiên Chúa. Hoặc bạn có thể thấy Ngài hoặc bạn không thấy.

Cuộc đánh cược của Pascal

Giả sử bạn vẫn cảm thấy rằng tất cả các luận chứng này là không thuyết phục. Có một luận chứng khác, khác với loại luận chứng trên. Nó đã được biết đến như là một cuộc đánh cược của Pascal. Chúng tôi đề cập đến nó ở đây và làm cho nó thích ứng với mục đích của chúng ta, không phải vì nó là một bằng chứng cho sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng vì nó có thể giúp chúng ta trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa trong khi không có bằng chứng thỏa đáng.

Theo đề xuất ban đầu của Pascal, cuộc đánh cược giả định rằng nó không đưa ra những lý lẽ ủng hộ hay chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa; nhưng vẫn có các lý lẽ ủng hộ cho cả hai bên. Vì lý trí không thể quyết định cho chắc chắn được, và vì vấn đề có tầm quan trọng như vậy, dù sao chúng ta cũng phải quyết định, chúng ta phải “đánh cược” nếu chúng ta không thể chứng minh. Câu hỏi được đặt ra là: Bạn sẽ đặt cược vào đâu?

Nếu bạn đặt cược vào Thiên Chúa, thì bạn chẳng mất gì, ngay cả khi Thiên Chúa không hiện hữu. Nhưng nếu bạn đặt cược không có Thiên Chúa, và bạn mắc sai lầm nếu Thiên Chúa thực sự hiện hữu, khi đó bạn mất tất cả: Thiên Chúa, đời sau, thiên đàng, ích lợi đời đời. “Chúng ta hãy đánh giá hai trường hợp: nếu bạn thắng, bạn được tất cả, nếu bạn thua, bạn chẳng mất tí gì” (xem hình 2)

Thiên Chúa hiện hữu          Thiên Chúa không hiện hữu

Tôi tin vào Ngài                 Tôi không tin vào Ngài

Cuộc đánh cược có thể có vẻ vụ lợi khó chịu và hoàn toàn ích kỷ. Nhưng nó có thể được diễn tả lại cho hợp với một động cơ đạo đức cao hơn: Nếu có một Thiên Chúa tốt lành vô cùng, và Ngài thực sự xứng đáng với lòng trung thành và lòng tin của tôi, thì tôi có nguy cơ làm điều bất chính nhất nếu không nhìn nhận Ngài.

Cuộc đánh cược không thể – hay không nên ép buộc tin. Nhưng nó có thể là một sự khích lệ chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa, để học tập và tái nghiên cứu các luận chứng mà chúng cho thấy rằng có một Điều gì đó – hay – một Đấng nào đó là lời giải thích cuối cùng về vũ trụ và về cuộc sống của tôi. Nó có thể thúc đẩy “Lời nguyện của người theo thuyết hoài nghi”: “Lạy Thiên Chúa, tôi không biết liệu Ngài có hiện hữu hay không nhưng nếu Ngài hiện hữu, xin thương tỏ cho tôi biết Ngài là ai.”

Pascal nói rằng có ba loại người: những người đã tìm kiếm Thiên Chúa và đã thấy Ngài, những người đang tìm kiếm và chưa tìm thấy, và những người không tìm kiếm và cũng không thấy. Loại người đầu tiên thì khôn ngoan và đạt được hạnh phúc, loại người thứ hai thì khôn ngoan nhưng chưa hạnh phúc, loại người thứ ba thì chẳng khôn ngoan hay hạnh phúc. Nếu cuộc đánh cược khích lệ chúng ta ít là để tìm kiếm Thiên Chúa, thì nó cũng sẽ khích lệ chúng ta trở nên khôn ngoan. Và nếu lời hứa mà Chúa Giêsu hứa là đúng, thì tất cả những ai tìm kiếm thì sẽ thấy (Mt 7:7-8) và, do đó, sẽ được hạnh phúc.

(theo http://giaophanthaibinh.org)

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Phần 3:

Câu chuyện về một người ưỡn ngực thách thức Thiên Chúa rằng: 

“Nếu Ngài thực sự hiện diện thì hãy trừng phạt sự kiêu ngạo của tôi đi”.

Thế nhưng, anh ta vẫn bình an vô sự. Và như vậy, phải chăng Thiên Chúa không tồn tại? 

Bạn thân mến! lý chứng trên thoạt đầu thấy có vẻ rất hợp tình hợp lý, nhưng thật sự lại là một lầm lạc đáng thương. Tại sao ư! Chúng ta sẽ đơn cử ra đây câu chuyện về tình phụ tử.

Bạn hãy thử hình dung, có một đứa con ngỗ nghịch, cầm dao và thách thức cha mình rằng: “Ông không phải là cha tôi, nếu ông muốn chứng minh là cha của tôi thì hãy cầm dao đâm chết tôi đi để tôi tin ông”.

Theo bạn, người cha liệu có chấp nhận cách mà đứa con ngỗ nghịch ấy đưa ra, để chứng minh ông thực sự là cha của nó?

Thưa không! Ông thà chấp nhận hy sinh, bởi vì ông yêu thương con mình và ông cũng biết chắc chắn mình là cha của nó. Hơn nữa, ông cũng chẳng có một lý do gì để phải chiều theo sự nông cạn và bốc đồng của đứa con thơ, với biết bao sự nghi ngờ và bồng bột.

Cũng thế, Thiên Chúa không dùng sét để đánh chết kẻ thách thức Ngài, không phải vì Ngài không hiện hữu, nhưng là vì Ngài yêu thương anh ta. Và cũng như người cha trong mẫu chuyện trên đây, Thiên Chúa cũng không chấp sự nông nổi và bồng bột của chúng ta.

Nhưng thật đáng xấu hổ thay, vì đôi khi chúng ta hay vận dụng lý trí “hạn hẹp” của mình để quy gán cho Thiên Chúa, để rồi đi đến những lầm lạc thật đáng thương, như người thanh niên trong mẫu chuyện trên. Chính vì thế, thay vì sử dụng lý trí, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn mình để Thiên Chúa có thể đi vào, để chúng ta có thể cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn mình.

Lạy Chúa! Xin hãy mở rộng tâm hồn và trái tim con, để con có thể cảm nhận được sự hiện diện của Ngài, không phải bằng lý trí, nhưng bằng mối dây liên kết của tình yêu. Ước gì hình ảnh của Ngài được hiển tỏ một cách rõ ràng trong tâm hồn con qua từng ngày sống.

(Theo dongten.net)