Dấu Chỉ Ơn Gọi

TÀI LIỆU TỔNG HỢP: TÌM HIỂU ƠN GỌI

DẤU CHỈ ƠN GỌI

LM. Hồng Phúc, C.Ss.R

Làm sao biết được con đường Chúa muốn cho chúng ta đi, địa vị chúng ta sống? Làm sao biết mình có ơn Kêu Gọi? Ðó là điều băn khoăn của các bạn.

Trước hết, nhiều khi Chúa kêu gọi một cách trực tiếp, rõ ràng bằng những DẤU bề ngoài.

"Hỡi Abraham, hãy bỏ quê hương bà con thân thuộc, bỏ nhà Cha ngươi để đến xứ mà Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ của một dân tộc" (Sáng Thế 12,1). Ðó là ơn gọi của tổ phụ Do Thái, ông Abraham.

Chúa đến bên cạnh Mathêu đang ngồi bên két bạc. "Hãy theo Ta" (Mt. 9,9). Ðó là ơn gọi của thánh Mathêu Tông Ðồ.

Nhiều khi có ơn gọi rõ ràng nhưng bị chống đối hoặc chấp nhận một cách miễn cưỡng trong lo sợ. Maisen nói cùng Ðức Giavê: "Tôi là ai mà dám đi gặp vua Pharaon... Xin lỗi Ngài tôi không có tài ăn nói. Miệng tôi thô sơ, lưỡi tôi nặng nề" (XH. 4,10). Lời của Giavê phán cùng Gionas: "Hãy đứng lên đi về thành Ninivê và loan báo cho họ biết tội ác của họ đã kêu lên đến Ta. Gionas lên đường nhưng lại chạy trốn sang Tarsis, xa Ðức Giavê" (Jon.1,1-2).

Trong lịch sử Giáo Hội, thánh Ephrem được gọi chịu chức Linh mục hoảng sợ quá đã giả vờ người điên. Thánh Athanasio và Cyprianô được gọi chịu chức thánh. hoảng quá đã chạy trốn.

Nhiều khi tiếng Chúa vọng lên một nơi và bằng phương tiện bất ngờ nhất. Cha Jer. Planus kể chuyện một nhà quý phái thích làm le với các cô các bà. Bị con ngựa trở chứng hất té nhào vào đống phân. Bị các bà các cô cười cho một trận... Xấu hổ chán đời... đi tu! Cha Giuse Lupo, Giám đốc ơn gọi của Dòng Thiên Chúa Ba Ngôi tại Hoa Kỳ, năm 1971 có sáng kiến đăng một quảng cáo nhỏ về ơn kêu gọi trong tạp chí mà nhiều thanh niên hay đọc, tạp chí Playboy. Kết quả bất ngờ: nhờ quảng cáo ấy mà 27 chàng thanh niên đã đến tìm hiểu Tập Viện và Ðại Chủng Viện của Dòng tải Garrison, tiểu bang Maryland.

Phần đông các trường hợp Chúa không hiện hình ra hay bày tỏ rõ ràng, Ngài thường dùng những cái mà các nhà Thần học quen gọi là DẤU ƠN GỌI để tỏ cho chúng ta biết thánh ý của Ngài muốn cho chúng ta đi về đâu.

 

A. DẤU HƯỚNG VỀ CUỘC SỐNG ÐÔI BẠN

Phần đông các bạn thanh niên thiếu nữ sẽ hướng về cuộc sống đôi bạn. Hỏi rằng có những DẤU nào rõ ràng khả dĩ có thể kết luận về việc ấy không? Khó quả quyết, nhưng có những Dấu sau đây có thể dùng để định hướng:

1. Thích cuộc sống đôi bạn. Không bao giờ nghĩ đến việc đi tu hay ở độc thân để phục vụ.

2. Hướng chiều về những thú vui nhục dục trong tư tưởng, lời nói, việc làm.

3. Hay lỗi phạm về đức trong sạch.

4. Không có một ý chí mạnh mẽ.

5. Thích một đời sống dễ dãi, không thích chịu khó.

6. Ðời sống đạo đức tầm thường, nhiều khi giữ đạo vì thói quen, vì liên hệ gia đình hơn là vì xác tín.

Ðó là ít dấu chỉ. Nói như vậy không phải là tất cả những ai đi kết bạn đều có những nhược điểm ấy. Nhưng đó là ít điểm hướng dẫn khi phải đặt vấn đề trong việc tìm hiểu ơn gọi.

 

B. DẤU HƯỚNG VỀ CUỘC SỐNG ÐỘC THÂN

Có những dấu chỉ tóm lược như sau:

1. Không có đủ điều kiện để đi tu mà cũng thiếu điều kiện để lập gia đình, vì thể xác, bệnh tật, tính tình hoặc chính mình không thích tu mà cũng không thích lập gia đình.

2. Muốn hiến dâng cuộc đời để phục vụ một lý tưởng, đeo đuổi một chí hướng.

Muốn sống đời độc thân ấy phải có 3 điều kiện sau đây:

- Tinh thần cương quyết

- Một đời sống đạo đức vững chắc

- Một nghề nghiệp bảo đảm cuộc sống tự lập, không phải dựa vào người khác. Có một chổ ở tương đối bảo đảm an ninh nếu mình là phụ nữ.

 

C. DẤU ƠN GỌI TU TRÌ

(Signes Probateurs de Vocation)

Cho đến nay các nhà Thần Học cũng không hiểu nổi bản chất của ơn gọi và Giáo Hội cũng không tuyên bố gì về bản chất ấy. Tuy nhiên trong thực tế, Giáo Hội đã theo đường hướng sau đây:

Ðầu thế kỷ 20 này đã có một cuộc tranh luận quan trọng về Ơn Gọi làm Linh mục. Ðức Giáo Hoàng Piô thứ X đã thiết lập một Ủy Ban gồm các Hồng Y để học hỏi về vấn đề ấy. Ủy Ban đã đúc kết thành một quyết nghị đệ lên Ðức Thánh Cha ngày 20.6.1912 và được phi chuan ngày 26.6.1912. Quyết nghị ấy đã trở nên khuôn vàng thước ngọc để định đoạt về Ơn Gọi vào bậc tu trì. Sau này, quyết nghị ấy cũng được áp dụng trong Giáo Luật 1917 ở điều khoản 538 và trong bộ Giáo Luật mới 1983 ở điều khoản 642.

Dựa trên quyết nghị ấy, về phần tiêu cực, người muốn đi tu phải là người không vướng mắc những ngăn trở khiến cho việc gia nhập Dòng Tu trở nên bất thành hoặc bất hợp pháp. Ví dụ: Vào Tập Viện khi chưa đủ 17 tuổi hoặc còn vợ, chồng hoặc từ Dòng tu khác qua mà không có phép chính thức theo Giáo Luật (GL.643)

Nhưng quan trọng hơn cả là phần tích cực gồm có những cái mà nhà Tu Ðức và Thần Học gọi là các DẤU MINH CHỨNG ƠN GỌI (signes probateurs de Vocation). Các Dấu nào?

1. Trước hết phải xét đến Thiện Chí hay ý ngay lành của thỉnh sinh. Muốn tận hiến cho Chúa trước tiên phải ước ao, phai muốn đi Tu. Không phải chỉ là một ước muốn mơ hồ, mà là một ý muốn cương quyết mạnh mẽ và lâu bền đầy ý thức. Ðành rằng có thể có những hối tiếc, những cám dỗ như truyện bà thánh Chantal, nhưng đương sự vẫn cố gắng và cương quyết vượt qua. Ði theo Chúa không phải vì vụ lợi vì danh vọng mà vì muốn nên trọn lành. Chúa phán cùng người thanh niên: nếu con muốn nên trọn lành hãy về bán hết tài sản...... Ðó là dấu căn bản thứ nhất. Nhưng thiện chí thôi không đủ. Cần có những khả năng nữa. Khả Năng là gì? Là những đức tính tự nhiên và siêu nhiên khiến cho người thỉnh sinh có hy vọng vuông tròn với cuộc sống mình chọn. Ði tu là tu cả con người. Và ơn thánh không cản trở hay thay thế bản chất tự nhiên mà chỉ siêu hóa và thánh hóa. Vì vậy phải chú trọng đến các đặc tính tự nhiên và siêu nhiên. Bà thánh Jeanne de Chantal nói với chị em trong Dòng rằng: Hãy chú trọng đến phương diện tự nhiên của các thiếu nữ được nhận vào Dòng. Vì bản chất tự nhiên không chết và với thời gian có thể vùng lên. Ít kẻ nhận ơn để kềm chế bản năng xấu tự nhiên. Ít khi một thiếu nữ có bản tính tốt và có trí khôn mà lại hư mất.

2. Có 5 Khả Năng thường được cân nhắc khi thẩm xét một ơn kêu gọi vào Dòng.

 

1- GIA ÐÌNH (Souche)

Thật ra ngày nay Giáo Hội bãi bỏ ngăn trở về gia đình trong việc tu trì như đối với con ngoại hôn. Nhưng thường phải thẩm xét về thế giá của gia đình. Thế giá đây không phải là vấn đề giàu nghèo, sang hèn, mà chú tâm đến sự liêm chính, đức tính làm ăn cần cù, nhất là lòng đạo đức của người làm cha mẹ. Cây lành thường sinh trái tốt. Kinh nghiệm cho thấy những ơn gọi thường phát xuất từ vùng quê, trong những gia đình đạo đức làm ăn cần cù tiết kiệm.

 

2- SỨC KHỎE VÀ TÍNH TÌNH (Santé)

Không cần phải là nhà lực sĩ mới đi tu được. Nhưng người Thỉnh Sinh phải có một sức khỏe vừa phải, khả dĩ vuông tròn bổn phận mai sau. Sức khỏe ảnh hưởng đến tính tình, học vấn và nhân đức. Thể xác yếu nhược thường làm cho ý chí cũng bị ảnh hưởng.

Về tính tình, muốn đi tu phải tập cho có một tính khí QUÂN BÌNH. Không cực đoan. Không nhu nhược mà cũng không ngang ngược. Quá yểu điệu có thể bị gẫy dưới gánh nặng, mà quá ương ngạnh cũng có thể bể gẫy và đạp đổ, làm một nhà cách mạng dễ hơn là một nhà tu. Phải đề phòng tính đa sầu đa cảm, sống với gió và với trăng. Phải tập bỏ tính hoài nghi và thiếu cởi mở. Ði tu là sống và làm việc chung, không được cô đơn như một hòn đảo. Họ sẽ đau khổ và làm cho người khác cũng đau khổ trong đời sống chung.

 

3-   HỌC VẤN (Science)

Muốn đi tu phải có một nền học vấn căn bản. Bên Hoa Kỳ này thường là hết bậc Trung Học. Cách riêng phải có một trí PHÁN ÐOÁN vững chắc. Chạm "mát" không đi tu được. Trí khôn cởi mở có thể hiểu biết về đời sống tu và đại cương về khoa tu đức.

 

4-   LÒNG ÐẠO ÐỨC (Sainteté)

Lòng đạo đức gồm 3 phương diện sau đây cần phải được xét đến:

a. ÐỜI SỐNG NỘI TÂM

- Thích cầu nguyện, sống kết hợp với Chúa, dựa trên một nhu cầu sống hơn là trên tình cảm. Tuy nhiên đây là một sự cố gắng cả một đời, không thể đòi hỏi có ngay từ đầu được.

b. ÐỨC TRONG SẠCH

- Người tu sĩ sẽ khấn đức khiết trinh, cần có sự cố gắng để chế ngự tình cảm từ ban đầu. Lỗi phạm sơ qua và đã ăn năn thống hối, không đặt thành vấn đề. Nhưng khi đã thành tập quán, sa đi ngã lại nhiều lần, không nên đi vào đời tu trì.

c. LÒNG QUẢNG ÐẠI HY SINH

- Hay thương giúp kẻ khác là đức tính cần thiết. Người ích kỷ chỉ biết có mình thôi không đi tu được.

 

5-   ÐẶC TÍNH XÃ HỘI (Socialbilité)

Người tu sĩ phải biết sống chung. Ðời tu đòi hỏi đặc tính xã hội, hòa mình với kẻ khác. Vì thế phải tập cho có một tính tình dễ dãi, không nên là thánh giá cho kẻ khác nhưng đem niềm vui cho những người chung quanh.

 

ƠN GỌI THÀNH HÌNH VỚI SỰ CHẤP THUẬN CỦA BỀ TRÊN

Xưa nay có nhiều tiếng gọi vọng lên mà không có sự đáp ứng. Chúa Giêsu gặp một thanh niên, người nói với anh: "Nếu anh muốn nên trọn lành thì hãy đi bán những gì anh đang có. Bố thí cho người nghèo khó và anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi hãy trở lại theo Ta. Nghe lời ấy, người thanh niên bỏ đi buồn rầu, vì anh có nhiều của cải" (Mt.19,21-22).

Nhiều khi tiếng Chúa cũng vọng lên rồi mất tăm trong sa mạc, không có đáp ứng hay bị phản bội. Staline là một cựu chủng sinh. Nhà cách mạng khát máu Robespierre lúc thiếu thời đã được Cha Linh Hướng bảo: "Con có ơn gọi làm Linh mục".

Vậy điều cần thiết là tìm hiểu ơn gọi rồi đem hết thiện chí đáp ứng. Nhưng thiện chí cũng như những khả năng nói trên mà mỗi Thỉnh Sinh cố tập cho có, nói được chỉ là chất liệu của ơn gọi.

Muốn thành Ơn Gọi thật thì phải có sự chấp thuận của Bề trên. Trong Giáo Hội, Chúa điều khiển các linh hồn qua các Ðấng Bề Trên.

Trước một Ơn Gọi, cá nhân mỗi đương sự phải đi tìm hiểu học hỏi. Bề trên cũng cân nhắc suy nghĩ và quyết định. Sự chấp thuận của Bề trên, Giáo Hội làm cho Ơn Gọi thành hình và hoàn hảo. Người Thỉnh Sinh có thể nói: Tôi có Ơn Gọi và khi được Khấn Dòng thì trở nên Tu Sĩ thật của Chúa và Giáo Hội.

 

KẾT LUẬN

Mỗi người trong chúng ta cần phải tìm cho được con đường mà Chúa muốn cho mình đi. Hạnh phúc cả cuộc đời tùy thuộc sự việc ấy. Vì thế, chúng ta hãy cầu nguyện, hãy tìm hiểu, hãy xin ơn soi sáng.

Cha mẹ thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, ông Martin và bà Guerine đã đi tìm hiểu đời sống tu trì. Nhưng Chúa không muốn cho họ đi con đường ấy và họ đã bước vào cuộc sống gia đình và nên thánh. Phải chăng Chúa cũng muốn cho các bạn đi vào cuộc sống hôn nhân ấy? Hai ông bà có 5 người con Têrêxa là con út, đã vào Dòng Kín. Con đường ấy, biết đâu cũng là con đường của một số trong các bạn?

Chúng tôi xin kết luận với lời tâm huyết của Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI:

"Chúng tôi kêu gọi cách riêng các bạn trẻ mà chúng tôi rất ưu ái. Các bạn chưa có một quyết định tối hậu nào để các bạn tỏ ra hào hiệp hy sinh. Có rất nhiều tiếng gọi. Có rất nhiều ngã đường đang mở ra trước mắt các bạn, kêu mời bạn tiến lên để phục vụ dân Chúa và Giáo Hội. Phải chăng tiếng gọi này sẽ không có đáp ứng? Phải chăng con đường ấy sẽ không có người đi? Các bạn đầy rộng lượng hy sinh. Hãy hy sinh cho lý tưởng ấy. Vì sao bạn dừng chân và chờ đợi? Trong khi đó thế giới này đang thay đổi mau lẹ. Từng đoàn người mới xuất hiện trên trái đất. Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi người. Cho người nghèo khó hôm qua cũng như ngày nay và ngày mai. Luôn luôn có những người đói khát, lao tù, những người bệnh tật trong thể xác và tâm hồn.

Họ đang chờ đợi bạn, Trong họ, Chúa Giêsu đang chờ đợi bạn. Có việc cho mọi người! Có chỗ đang đón bạn"

(Trích lời Hiệu Triệu của Ðức Phaolô VI nhân ngày Thiên Triệu 13.5.1973).

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

 

 

 

Ơn gọi đi tu? người tu bị cám dỗ? phạm tội rồi đi tu ? tu viện và đan viện?

Hỏi:

- Làm sao biết có ơn gọi đi tu?

- Người đi tu hay bị cám dỗ về điều gì ?

- Phạm tội trong quá khứ, có đi tu được không?

- Tu viện và đan viện khác nhau thế nào?

 Đáp:

Xin lần lượt trả lời từng câu hỏi trên:

 1- Làm sao biết có ơn gọi đi tu? - Khi Thiên Chúa muốn gọi ai vào bậc tu trì (làm linh mục hay thầy dòng, bà sơ), Chúa thường cho những dấu hiệu, tuy ban đầu còn lờ mờ nhưng dần dần sẽ rõ nét. Có thể tóm như trong Giáo luật khoản 241,1 sau về người muốn làm linh mục :"Giám mục chỉ nên nhận vào Đại chủng viện những người nào, xét theo các đức tính nhân bản và luân lý, đạo hạnh và trí tuệ, sức khỏe thể lý và tâm lý, cùng ý muốn ngay thẳng của họ, được coi là có đủ khả năng hiến thân trọn đời cho các tác vụ thánh".Những điều trên là những tư cách tốt để đi tu, để trở nên linh mục tu sĩ tốt, đạo đức, thánh thiện, tương tự như chia thành 3 chữ T cho dễ nhớ:1. Thể: Khỏe mạnh, không tật nguyền,2. Trí: Học lực khá, thông minh càng tốt, nhưng cần khiêm tốn,3. Tâm: với mình: thật thà, trong sạch, với người: bác ái, hi sinh, với Chúa: cầu nguyện, tôn vinh. Đây là những điều lý tưởng, xứng đáng cho người tu.Vậy nếu người trẻ nào thấy lòng ham thích tu, thích nên người tốt, thích phục vụ tha nhân, đó là dấu tốt, hãy gắng mấy điều sau trong thời gian đợi đi tu:

            1. Cầu nguyện (pray) xin Đức Mẹ giữ ơn gọi.

            2. Giữ tâm hồn trong trắng ("limit" trong tiếp xúc với bạn bè khác phái...)

            3. Tập nhượng bộ (surrender) không hung hăng tranh cãi.

            Việc tìm nơi tu: Coi xem mình thích làm gì, thì tìm nơi hợp với mình. Ví dụ: Ai thích làm linh mục giáo phận (diocesan priest) thì tìm hiểu Chủng viện (Seminary), thích làm linh mục Dòng thì vào dòng linh mục, thích dạy học thì tìm hiểu dòng dạy học...đừng vào thử dòng coi bệnh nhân, sẽ mất giờ và dễ mất ơn gọi.  Ngày nay, nhiều bạn trẻ không thích đi tu, nhưng cha mẹ sợ để ở ngoài, con đâm hư, nên gửi vào nhà dòng theo học, được năm nào hay năm ấy, vì thế số đệ tử tu thật không nhiều.

 2. - Người đi tu hay bị cám dỗ về điều gì ?

- Đi tu hay ở ngoài mỗi người đều có mối tội đầu. Người tu hay người đời hay bị cám dỗ về mối tội đầu của mình, bị cám dỗ về những gì mình thiếu. Người tu cũng thường bị cám dỗ về 3 điều họ đã khấn: muốn theo ý riêng mình, đời sống gia đình, tiền bạc...nhiều hơn. Họ đã bỏ tình yêu ngoài đời, thay vào bằng tình yêu Chúa , nhưng Chúa thì thiêng liêng...nên dễ bị cám dỗ hướng ra đời.

Họ cần cầu nguyện luôn xin Đức Mẹ giúp sức, từ bỏ con người tự nhiên, tập khiêm tốn trong nếp sống cộng đồng...mới mong bền đỗ.

Tu một năm thì lắm người tu, nhưng tu cả đời, không dễ chút nào.

Nhiều tu sĩ ban đầu cũng hăng hái, đã khấn trọn đời, đã theo tới hết thần học, nhưng rồi bỏ cuộc tu. Họ tưởng ra đi sẽ làm chuyện này chuyện nọ, thành công ở nơi nọ nơi kia, nhưng hoàn cảnh cuộc đời không như họ tưởng, sau cùng đành kết thúc trong bậc sống gia đình, cũng gặp những lủng củng khó khăn...  

 3 - Phạm tội trong quá khứ, có đi tu được không?

- Câu hỏi này không xác định loại tội, có lẽ người hỏi nhắm vào tội về phái tính...Nếu đúng thì có 2 trường hợp:

a/ nếu đã có con với nhau thì phải có trách nhiệm nên khó mà đi tu, trừ khi bên kia lãnh trách nhiệm giùm,

b/ nếu không có con thì ăn năn xưng tội, đi tu được như thường, miễn là dứt khoát đi tu, không vương vấn, không "bắt cá 2 tay". 

4 - Tu viện và đan viện khác nhau thế nào?

- Tu viện (Religious house, Convent) là nơi các tu sĩ thực hành đời sống chung: cùng cầu nguyện, cùng ăn uống, cùng ngủ nghỉ, cùng sinh hoạt...theo giờ giấc chỉ định.

- Đan viện (Abbey, Monastery) đan (đơn độc = monos, alone) nơi các tu sĩ thực hành đời sống chiêm niệm cá nhân nhiều hơn, trừ thánh lễ, các Giờ Kinh nguyện được cử hành chung.

Dù sống tập thể trong tu viện, hay sống cá nhân trong đan viện, đời tu không thiếu thánh giá, như Chúa Giêsu phán: "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo" (Mt 16,24).

Trong đời sống chung, dù là cùng phái, nhiều khi rất phức tạp, rất cần sự  khiêm tốn, bỏ mình, nhịn nhục nhau, hi sinh cho nhau... Sách Gương Chúa Giêsu nói: "Ở đây không ai đứng vững (tu bền đỗ), nếu không tự hạ vì Chúa ".

 Nhưng nếu tu "đắc đạo", dù là tu viện hay đan viện, phần thưởng lại lớn lao: "Được lãi gấp trăm ở đời này và hằng sống đời sau" (Mt 19,9). Lời hứa ấy của Thiên Chúa  là chắc chắn.

 

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

 

 

Hỏi 342

Dấu chỉ của ơn gọi hôn nhân là gì? Và trách nhiệm đối với bạn đời, con cái, xã hội nhân loại và trước mắt Thiên Chúa?

Đáp:

Khi nói tới ơn gọi ta có nhiều lãnh vực phải bàn giải. Ơn gọi căn bản của chúng ta là ơn gọi làm Kitô hữu. Chúng ta được gọi để sống chân lý đức tin Kitô giáo: Yêu Thiên Chúa, yêu tha nhân. Vì yêu Chúa và đồng loại chúng ta phải thực thi lời mời gọi loan báo Tin Mừng trong mọi môi trường và bậc sống.

Theo vấn nạn nêu trên, có ý nói về ơn gọi theo bậc sống. Một Kitô hữu có thể được kêu gọi sống đời linh mục, tu sĩ, hay sống bậc giáo dân. Trong bậc sống giáo dân có người được gọi để sống độc thân giữa đời nhưng đa số là được gọi để sống bậc sống gia đình. Do đó, ơn gọi sống bậc gia đình cũng là một ơn gọi cao quý của tín hữu.

Tôi căn cứ vào dấu hiệu nào để biết tôi được gọi sống trong bậc này?

Khi nói tới ơn gọi là mặc nhiên chúng ta chân nhận Chúa là tác giả của ơn gọi. Chính Chúa gọi ta, mỗi người một ơn gọi cá biệt. Nếu Ngài đã muốn gọi, chắc chắn Ngài sẽ bày tỏ ý muốn đó cho ta bằng cách này hay cách khác. Chúa có cách riêng của Ngài để tỏ cho ta biết ý muốn của Ngài. Ta không thể bắt Chúa phải làm thế này hay thế khác cho ta. Chúng tôi không có câu trả lời vắn gọn cho vấn nạn “Dấu chỉ của ơn gọi hôn nhân là gì?” Chúng tôi chỉ có thể góp ý trong vấn đề này:

·         Trước hết phải cầu nguyện

·         Rồi trao đổi với những người có kinh nghiệm

·         Với thời gian, qua cầu nguyện và học hỏi, ta sẽ tìm ra ý Chúa cho ta.

·         Chúng ta không nên lo lắng quá. Từng bước, từng bước Chúa sẽ chỉ cho các bạn biết ơn gọi của mình.

Bất cứ ơn gọi sống bậc nào trước hết có thể nhận ra một “xu hướng” về bậc sống ấy. Có những người ngay từ nhỏ đã nghĩ đến đời sống linh mục hay tu sĩ và cảm thấy thích thú. Có những người khác lại chỉ nghĩ đến đời sống vợ chồng. Xu hướng tự nhiên này chưa phải là yếu tố quyết định nhưng ít nhất cũng là một dấu sơ khởi.

Thực tế cũng phải kiểm xét khả năng, điều kiện của bản thân đối với các bậc sống ấy. Muốn theo đuổi lý tưởng linh mục chắc chắn phải có khả năng trí tuệ có thể học được theo chương trình đào tạo linh mục. Nếu trí khôn kém quá thì là một dấu khá chắc chắn để biết mình không có ơn theo hướng đó. Đời sống gia đình trong bậc vợ chồng chắc chắn cũng có những đòi hỏi theo trách nhiệm và bản tính của bậc sống. Phải có trách nhiệm nuôi sống gia đình, nếu có hay không có khả năng chăm nuôi một gia đình cũng là một vấn đề để minh định mình có ơn gọi trong bậc sống đó hay không.

Ngoài ra những dấu chỉ cũng có thể nhận ra khi xét đến những “cơ hội”. Có xu hướng về một bậc sống nào nhưng lại không có cơ hội để đạt tới bậc sống đó thì cũng là một dấu rõ ràng không thể có ơn gọi trong bậc sống đó. Muốn sống bậc gia đình nhưng không ai chịu “lấy” thì phải âm thầm, vui vẻ chấp nhận sống đời “độc thân” và phải khám phá ra ơn gọi sống độc thân giữa đời. Giáo Lý Công Giáo đã dạy rằng: “Một số người không lấy vợ lấy chồng hầu có thể chăm lo cho cha mẹ, hoặc lo cho anh chị em mình, hoặc để chuyên lo một nghề nghiệp, hoặc vì những lý do đáng tôn trọng khác. Những người đó có thể đóng góp nhiều cho lợi ích của gia đình nhân loại” (số 2231). “Một số người, do những hoàn cảnh cụ thể, và thường không do ý muốn của họ: đó là con số đông những người sống độc thân. Họ rất gần với Trái Tim Chúa Giêsu và đáng được Giáo Hội, nhất là các vị chủ chăn thương yêu và lo lắng cho” (số 1658).

 

 

 

KHIÊM NHƯỜNG TRONG TRUYỀN GIÁO

Truyền giáo là một lo toan của Hội Thánh Việt Nam hiện nay. Lo toan đó có vẻ lớn lao, nhất là khi được phát động với những khẩu hiệu, như một chiến dịch, như một phong trào. Bề ngoài coi thì sôi nổi, nhưng nếu không tỉnh táo, bên trong sẽ mang theo nhiều nguy hiểm, mà không hay biết.

Để tránh phần nào những nguy hiểm làm cho việc truyền giáo trở thành hời hợt, ở đây xin phép đề cập tới một điều kiện cần, đó là sự khiêm nhường.

Trước hết, phải khiêm nhường trước mặt Chúa.

1/ Khiêm nhường đối với Thiên Chúa

Trong Phúc Âm thánh Mátthêu, Chúa Giêsu phán: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về" (Mt 9,37).

Cánh đồng mà Chúa Giêsu nói ở đây ám chỉ những con người trong một vùng rộng lớn. Những con người này cần được cứu rỗi. Cứu rỗi là một công trình siêu nhiên. Phải nhờ ơn Chúa mới làm được. Vì thế, mà phải cầu nguyện, xin ơn với Chúa.

Cầu nguyện là điều Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta phải nhấn mạnh trong việc truyền giáo. Phải cầu nguyện một cách khiêm nhường, với ý thức rằng: Công việc truyền giáo là công việc của thánh ý Chúa. Chỉ khi chúng ta làm đúng những gì thánh ý Chúa muốn ta làm cho những người nơi đó, thì mới là truyền giáo đích thực.

Một điều thánh ý Chúa đòi là chúng ta phải là người Chúa sai đi. Người được Chúa sai đi thì luôn phải gắn bó với Đấng sai mình, coi việc thi hành thánh ý Chúa là lương thực của mình. Chúa Giêsu phán: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga 4,34).

Phúc Âm cho thấy: Biết được đúng thánh ý Chúa là điều không dễ. Thực thi thánh ý Chúa mà mình đã biết cũng chẳng dễ dàng gì.

Thời Chúa Giêsu, những người Pharisêu, những người thông luật, cả đến các thượng tế cũng đã nhiều lần hiểu sai và làm sai thánh ý Chúa.

Đám đông cũng vậy. Chính các tông đồ Chúa trong nhiều trường hợp cũng đã không hiểu đúng ý Chúa, và đã làm sai ý Chúa.

Chúa Giêsu quả quyết: Bất cứ việc gì, dù bề ngoài được gọi là việc đạo đức, nếu làm sai ý Chúa, đều không được Chúa chấp nhận. Mà nếu không được Chúa chấp nhận, thì không được công phúc, có khi còn bị phạt.

Thời Giáo Hội sơ khai, trong những thư gởi các giáo đoàn, nhiều thánh tông đồ đã cảnh cáo về những việc làm sai ý Chúa, và về những người dạy sai giáo lý của Chúa.

Lịch sử truyền giáo suốt các thời kỳ của Giáo Hội đã ghi lại nhiều thành quả tốt, nhưng đồng thời cũng để lại không ít những sai lầm, mà hiện nay phải sám hối.

Tất cả đều chứng tỏ rằng: công việc truyền giáo phải luôn đi theo một định hướng do Chúa muốn. Định hướng đó là công cuộc cứu độ. Phải hợp tác với Chúa. Phải được Chúa sai đi. Phải nhân danh sự sai đi của Chúa. Nghĩa là phải rất khiêm nhường đối với Chúa.

Ngoài ra, còn phải khiêm nhường đối với những người khác.

2/ Khiêm nhường đối với mọi người khác

Trong Phúc Âm thánh Gioan, Chúa Giêsu phán: "Thầy sai anh em đi gặt những gì anh em không phải vất vả và làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả. Còn anh em, anh em được hưởng kết quả công lao của họ" (Ga 4,38).

Với những lời trên đây, Chúa Giêsu khuyên những người làm việc truyền giáo phải khiêm nhường đối với những người khác.

Trước hết, họ phải khiêm nhường đối với những người truyền giáo đi trước họ.

Truyền giáo là một công trình dài, do nhiều người kế tiếp nhau. Những người đi trước có thể là những nhà truyền giáo hoạt động, và cũng có thể là những người có đạo sống âm thầm. Sẽ không là nói quá, nếu cũng kể cả đến những nền văn hoá tốt và những người tốt, mặc dù họ chưa nhận được đức tin công giáo. Tóm lại, người truyền giáo được sai vào một thoáng của lịch sử dài. Lịch sử dài đó đã được tưới gội bởi biết bao mồ hôi, nước mắt của mọi thứ người, để có một hiện tại cho truyền giáo hôm nay.

Họ phải khiêm nhường đối với những người đi trước. Mà cũng phải khiêm nhường đối với những người đang truyền giáo xung quanh họ.

Công cuộc cứu độ trong truyền giáo là một công cuộc được Chúa trao cho nhiều người. Mỗi người đảm trách một việc nhất định, tại một nơi nhất định, trong một thời gian nhất định. Có người là Matta, phải vất vả với nhiều việc. Có người là Maria ngồi nghe Chúa dạy dỗ, cầu nguyện, lo đời sống nội tâm.

Trong truyền giáo, Chúa dùng những con người mà Chúa muốn. Xưa những người tai tiếng, như người đàn bà Samaria có 5 đời chồng, như Saolô hăng hái bắt đạo, họ cũng được Chúa gọi để đi truyền giáo. Nay cũng vậy, chúng ta phải trân trọng và biết ơn họ.

Nếu chúng ta được hưởng thành công nào, thì hãy khiêm nhường tự nhủ: tôi được hưởng kết quả công lao của nhiều người khác, tôi phải biết ơn họ.

Thiết tưởng, chúng ta cũng nên khiêm nhường đối với những người mà chúng ta được sai đến truyền giáo. Cảm ơn họ đã chấp nhận chúng ta. Biết ơn họ đã cộng tác với chúng ta. Nhớ ơn họ đã nâng đỡ chúng ta.

Để kết, chúng ta xin Chúa thương giúp chúng ta luôn biết sống khiêm nhường trong truyền giáo. Nhiều khi Chúa dùng những giải pháp khiêm nhường để giải quyết những vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn. Chúa thương kẻ khiêm nhường và chống lại kẻ kiêu căng.

Cúi xin Đức Mẹ Maria là người mẹ hiền từ khiêm tốn luôn đào tạo giáo dục chúng ta, để chúng ta biết sống khiêm nhường thực sự trước mặt Chúa và trước mặt mọi người.

-------------------------------------------------------------------------------------

 

 

Bạn ơi, tốt hơn hết là bạn nên tìm một cha nào đó ở Giáo phận Nha Trang hướng dẫn cho bạn. Bạn tìm không được thì bạn hãy đến hỏi cha xứ của bạn thì ngài sẽ tìm hiểu và hướng dẫn cho bạn. Bạn chỉ tìm kiếm những câu trả lời ở trên đây thì rất nguy hiểm đến ơn gọi của bạn. Tôi muốn nói là nguy hiểm, bởi vì những người ở đây không có phải là các Cha trong Ban Giám Đốc Chủng Viện Sao Biển-Nha Trang nhưng họ lại luôn sẵn sàng đưa ra cho bạn những chỉ dẫn. Bạn có biết tại sao các Chủng Viện lại cho thi xét tuyển sau khi học xong lớp 12 không? Cũng như ngoài đời khi bạn đi xin việc làm, đâu có phải cứ có nhiều bằng cấp hay bằng cấp cao là họ nhận bạn vào làm việc ngay. Bạn cứ cố mà học đi, đến khi có quá nhiều bằng cấp hay có bằng cấp cao rồi thì xin vào Chủng Viện, lúc đó sẽ không ai nhận đâu. Hơn nữa, nếu bạn có bằng cấp cao hay có nhiều bằng cấp thì chưa chắc bạn đã dám từ bỏ mà đi theo Ngài (Chúa). Nếu bạn can đảm bước theo Chúa thì bạn hãy can đảm dứt bỏ tham vọng học đại học đi mà thi vào Chủng Viện. Rất nhiều Chủng viện ngày nay đã bỏ việc xét tuyển sau khi đã tốt nghiệp Đại học là có lý do của nó. (Tôi không tiện nói ra ở đây.) Thôi, đôi dòng muốn chia sẻ cùng bạn, hy vọng tôi viết ít mà bạn hiểu được nhiều. (diển đàn sinh viên công giáo)

 

TÀI LIỆU: NHẬN ĐỊNH ƠN GỌI TU TRÌ

 Ơn gọi là một vấn đề rất phổ quát mà cũng rất riêng tư. Thiết nghĩ, các bạn trẻ, cũng như anh em Ứng sinh Dòng Tên chúng tôi, rất muốn tìm hiểu thêm nhiều điều thú vị xung quanh vấn đề này. Xin được chia sẻ các bạn trẻ những tác phẩm, tài liệu thiết thực về Ơn gọi, đặc biệt là Ơn gọi Dâng hiến. Ước mong, qua những chia sẻ này, chúng ta sẽ hiểu thêm về bản thân và nhận ra rõ hơn những ‘động lực ơn gọi’ bên trong mình, và hơn hết, lắng nghe tiếng Chúa Giêsu đang ân cần gọi mời trong tâm hồn. Tài liệu NHẬN ĐỊNH ƠN GỌI TU TRÌ

Tác giả: Linh Mục Tôma Vũ Quang Trung, Giám Tỉnh Dòng Tên.

 

Dẫn nhập

Giáo Hội Việt Nam hiện nay là một trong số các Giáo Hội tại Châu Á đang có nhiều ơn gọi linh mục, tu sĩ. Nhiều bạn trẻ đang tiếp tục tìm đến các chủng viện, các dòng tu, đan viện, tu hội để xin được tìm hiểu ơn gọi tu trì.

Là những người được trao trách nhiệm nhận các em vào đời sống thánh hiến, chúng ta thường tự hỏi khi tiếp xúc với các em đến xin gia nhập cộng đoàn để sống đời tu trì: Động lực nào đã thúc đẩy bạn trẻ này đến đây để xin tìm hiểu và gia nhập chủng viện hoặc cộng đoàn? Đây là một câu hỏi không dễ có câu trả lời chính xác chỉ sau một vài ngày tĩnh tâm hoặc một vài tháng tìm hiểu!

Ơn gọi trước hết là một mầu nhiệm. Chúa gọi những ai Người muốn (x. Mc 3,13). Nhiệm vụ chúng ta là giúp các em khám phá ra tiếng Chúa gọi và đáp trả. Điều này diễn ra trong tiến trình nhận định ơn gọi. Tiến trình này lâu hay mau tuỳ thuộc vào việc nhận định các yếu tố liên hệ cho thấy có thể xác quyết đây là một ơn gọi thực sự.

Bài chia sẻ này xin trình bày về việc nhận định một ơn gọi, qua việc chú trọng đến việc khảo sát các động lực thúc đẩy một người trẻ đến xin gia nhập chủng viện, các dòng tu, đan viện, tu hội để trở nên các linh mục, tu sĩ.

I.        CÁC ĐỘNG LỰC Ý THỨC VÀ VÔ THỨC THÚC ĐẨY ƠN GỌI

Thế nào là động lực thúc đẩy ơn gọi? Đâu là những yếu tố can dự vào các động lực này? Một cách chung, động lực thường được hiểu như một ước muốn, một khao khát thực hiện một dự phóng, một mục tiêu nào đó của cuộc sống. Động lực này có những yếu tố bên trong và những yếu tố bên ngoài. Các yếu tố bên trong nằm ở tầng sâu thẳm của nội tâm mỗi người. Nó được diễn tả qua các ước muốn hoặc những sức mạnh lôi cuốn về một giá trị tinh thần hoặc thiêng liêng nào đó.

Trong các động lực thúc đẩy một người tìm đến một hướng sống hay một mục tiêu cho cuộc đời, cần lưu ý rằng, con người nào cũng đều có một phần tự do và một phần khác không hoàn toàn tự do. Vì vậy, những quyết định chọn lựa trong cuộc sống của mỗi người luôn chịu ảnh hưởng của mức độ tự do và không tự do của chính mình. Khi nhìn về đời sống linh mục, một chủng sinh có thể cảm thấy được lôi cuốn bởi một hình ảnh thật đẹp của một nhà truyền giáo đang vượt qua những thách đố và nguy hiểm để loan báo Tin Mừng cho các dân tộc đang sống nơi những vùng đất xa xôi, đầy gian nan, trắc trở. Một thiếu nữ có thể được đánh động bởi hình ảnh một nữ tu đang quên mình chăm sóc cho những trẻ em khuyết tật đáng thương hoặc các bệnh nhân AIDS giai đoạn cuối bị người thân bỏ rơi để đi đến quyến định chọn đời sống tu dòng. Trong sức hấp dẫn đầy lôi cuốn của những hình ảnh cao đẹp này, các bạn trẻ có thể nhận biết các động lực đang thúc đẩy trong lòng mà mình ý thức. Tuy nhiên, họ lại không thể biết đến những sức mạnh thôi thúc tiềm ẩn bên dưới nằm trong tầng sâu của vô thức. Chính những sức mạnh này ngấm ngầm chi phối cách mạnh mẽ quyết định chọn lựa hướng đi của cuộc sống mà họ không hề ý thức.

II.      NHẬN ĐỊNH VỀ CÁC ĐỘNG LỰC ƠN GỌI

Các nghiên cứu cho thấy rằng, trên bình diện ý thức, một bạn trẻ ước muốn trở nên linh mục hay tu sĩ thường bị lôi cuốn bởi lòng khao khát đi theo Chúa Giêsu qua việc dâng hiến đời mình để phục vụ tha nhân. Có bạn nói mình muốn đi tu để có thời giờ cầu nguyện và tìm sự bình an trong tâm hồn trong khung cảnh tĩnh lặng của đời chiêm niệm. Có những bạn khác khẳng định mạnh mẽ ước muốn trở nên một vị thánh. Lại không thiếu các bạn trẻ nghĩ rằng, nếu mình vào được nhà dòng, mình sẽ có cơ hội học tập tốt hơn, có thời giờ cầu nguyện nhiều hơn cho những người thân thuộc. Và biết đâu, lại chẳng có cơ hội được đi đây đi đó ra nước ngoài!

Tuy nhiên, các bạn trẻ lại ít biết rằng, bên cạnh những giá trị cao đẹp mà họ ao ước theo đuổi để thực hiện thì nơi thẳm sâu của tầng vô thức, có những sức mạnh khác thôi thúc họ chọn lựa đời tu không mấy phù hợp với các giá trị Tin Mừng, thậm chí hoàn toàn lệch lạc! Họ tìm kiếm để bù đắp một thiếu thốn sâu thẳm trong cuộc sống gia đình thời thơ ấu. Đời sống tu trì lúc này trở thành một môi trường thuận tiện có thể giúp họ thoả mãn những nhu cầu căn bản này.

Một cậu bé từ nhỏ đã luôn nghe mẹ nói: “Mẹ mong muốn con mai kia làm linh mục giống như bác con”. Ngày này qua tháng nọ, cậu bé được thấm dần ước mơ của mẹ cậu là cậu sẽ trở thành một linh mục, giống như bác cậu. Cậu vẫn hết lòng ngưỡng mộ bác cậu trong những lần bác có dịp về thăm mẹ và dâng lễ ngoài nhà thờ giáo xứ. Nghĩ về tương lai, nếu cậu làm linh mục giống bác cậu, mọi người dân trong làng sẽ kính trọng cậu. Mẹ cậu sẽ được mọi người xưng tụng là “bà cố”. Gia đình cậu sẽ được danh giá giữa xóm làng! Hướng đi tương lai của cậu như đã được xác định từ lúc cậu chưa đủ khả năng để có một quyết định chín chắn của một người trưởng thành!

Một cô bé nhà nghèo, vẫn phải đầu tắt mặt tối phụ việc với mẹ để lo kế sinh nhai cho gia đình, mà hoàn cảnh vẫn bữa đói bữa no. Nhờ các dì trong một nhà dòng gần đó giúp đỡ, cô bé mới có điều kiện đến trường. Một ngày kia, cô được mẹ gửi vào ở trong nhà nội trú của các dì. Ngày qua tháng lại, cô bé quen biết các dì hơn và sinh lòng cảm mến. Cô mong được sống như các dì mà không hề biết rằng mong ước tốt lành của cô chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của ước muốn thoát khỏi cảnh nghèo đói của gia đình, và hơn thế nữa, như một cách để trả ơn sự giúp đỡ của các dì.

Hai ví dụ trên đây cho chúng ta thấy một ơn gọi hướng đến đời sống tu trì luôn chịu ảnh hưởng bởi những động lực ý thức pha lẫn với những động lực vô thức.

Ơn gọi là tiếng gọi mầu nhiệm của Thiên Chúa dành riêng cho một người được kêu gọi và tuyển chọn cho một sứ mạng. Ngài thường dùng một số những dấu chỉ tự nhiên để lôi kéo con người đến ơn gọi này. Hai ví dụ trên đây còn giúp chúng ta hiểu được những động lực có thể thôi thúc một bạn trẻ dấn thân vào đời sống tu trì.  Đây là những dấu chỉ giúp chúng ta nhận định về ơn gọi của một bạn trẻ. Những dấu chỉ này vừa là những yếu tố bên trong, vừa là những yếu tố bên ngoài.

2.1 Các yếu tố bên trong

Khi kêu gọi ai, Thiên Chúa đặt trong lòng họ một ước ao sâu thẳm hướng họ về đời sống tu trì để trở nên linh mục, tu sĩ. Tuy nhiên, ước muốn vẫn chưa đủ. Một người có thể ước muốn bước vào đời tu với nhiều lý do khác nhau. Vấn đề là phải có động lực ơn gọi đúng đắn và trong sáng. Chính tại điểm này mà chúng ta chạm đến mầu nhiệm con người với tất cả sự phức tạp của đời sống tâm linh, nơi có sự tương tác qua lại giữa những nhu cầu vô thức và ý thức. Sự tương tác này gây ảnh hưởng lớn đến hệ thống các giá trị của một người và ảnh hưởng trên các động lực thôi thúc họ tìm đến ơn gọi. Một bạn trẻ bước vào đời tu có thể vừa do các nhu cầu, vừa do các giá trị mình theo đuổi. Vì vậy, các yếu tố bên trong của một ơn gọi có liên hệ trực tiếp đến các động lực ý thức và các động lực vô thức.

2.1.1 Các động lực ý thức

Các động lực ý thức là sự hiểu biết trực tiếp về chính mình. Các động lực này, dù chính đáng hay không, cũng vẫn dễ dàng nhận biết. Giáo Hội luôn mong chờ nơi các ứng sinh tìm đến ơn gọi với các giá trị tích cực. Một bạn trẻ có thể trả lời về lý do thôi thúc mình đi tu (1) vì mình muốn phụng sự Chúa, (2) vì mình muốn hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, (3) vì mình muốn làm cho Nước Chúa được mở rộng, (4) vì mình muốn sống Tin Mừng sung mãn và triệt để hơn, (5) vì mình muốn cộng tác với Chúa để xây dựng thế giới này tốt đẹp hơn, (6) vì mình muốn chia sẻ niềm vui và hạnh phúc mình đang có cho người khác. Đó là những giá trị mà các bạn trẻ nhắm đến khi muốn dấn thân vào đời sống tu trì. Các động lực ý thức này thường hướng đến các giá trị thiêng liêng và tôn giáo.

Sự phức tạp trong tiến trình nhận định ơn gọi chính là mỗi người không chỉ có một động lực duy nhất khi đến với ơn gọi. Những động lực thúc đẩy ơn gọi nơi một người lại càng không hoàn toàn thuộc mức độ ý thức. Vì thế, bên cạnh những động lực ý thức vẫn có sự pha lẫn các động lực vô thức khác.

2.1.2 Các động lực vô thức

Các động lực vô thức thường rất khó nhận thấy. Thông thường, người ta cần nhờ đến các hình thức trắc nghiệm tâm lý hiện đại để khám phá ra các động lực này. Kết quả các loại trắc nghiệm này có thể giúp người ta khám phá và nhận biết mình rõ hơn. Một khi nhận biết các động lực vô thức, vốn thường bị lệch lạc và không lành mạnh, người ta có thể thanh luyện chính mình để mỗi ngày tiến đến sự tự do nội tâm hoàn hảo hơn.

Từ hai ví dụ trên đây, chúng ta có thể liệt kê ra một vài động lực vô thức thường hay tiềm ẩn dưới những giá trị tốt đẹp của bình diện ý thức như sau:          

(1)     Thực hiện ước muốn của cha mẹ

Ứng sinh được thôi thúc đến ơn gọi tu trì là để thực hiện ước muốn của cha mẹ. Chính người bạn trẻ không hề có xác tín cá nhân rằng mình nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi và hoàn toàn muốn đáp trả tiếng gọi ấy. Khi nhận ra điều này, ứng sinh nhiều khi không đủ can đảm xin chuyển hướng khi biết rõ mình không có ơn gọi vì sợ làm cha mẹ buồn và thất vọng về mình. Nhưng khi cha mẹ không còn, thì việc chuyển hướng sẽ xảy ra vì động lực ơn gọi không còn nữa. Khi ấy, có thể ứng viên đã là một linh mục hay nữ tu nhưng lại không đủ sức tiếp tục con đường mà mình cho là đã chọn lựa một cách sai lầm trước đó chỉ để làm vui lòng cha mẹ! Nếu không bỏ cuộc thì đời sống tu trì lúc đó sẽ không còn ý nghĩa nữa. Nó chỉ là một chuỗi ngày kéo lê với tất cả mọi sự hỗn độn của nó, gây ra không ít khó khăn cho bản thân của người ấy vì không tìm được niềm vui và hạnh phúc, cho đời sống cộng đoàn và cho sứ mạng phục vụ của Giáo Hội.

Sự hiện diện của các linh mục, tu sĩ trong bà con họ hàng có thể ảnh hưởng đến việc chọn lựa ơn gọi của một ứng sinh. Ảnh hưởng này có thể tốt hoặc xấu tuỳ trường hợp. Nếu ứng sinh bị cuốn hút vì những giá trị tinh thần và thiêng liêng cao đẹp nơi sự dấn thân của các linh mục, tu sĩ này thì sự hiện diện đó sẽ sẽ ảnh hưởng tốt trên ơn gọi của ứng sinh. Ngược lại, nếu ứng sinh chỉ bị lôi kéo về các giá trị có vẻ thế tục ngoài xã hội như thấy họ có địa vị cao, được mọi người kính trọng, có cuộc sống đầy đủ tiện nghi… thì sự hiện diện này sẽ ảnh hưởng xấu trên ơn gọi của ứng sinh. Lúc đó, ứng sinh có thể theo đuổi ơn gọi để tìm kiếm các giá trị thế tục này cho bản thân mình.

(2) Ước muốn phát triển bản thân

Một bạn trẻ có thể được thôi thúc bước vào đời tu như một con đường tiến thân mở ra một bảo đảm tương lai cho bản thân. Lúc ấy, đời tu như một môi trường thuận lợi để phát triển các tài năng cá nhân. Việc phục vụ trở nên một cơ hội phô trương cái tôi trước mặt mọi người. Đặc biệt, trong bối cảnh hôm nay của Giáo hội Việt Nam, nhiều bạn trẻ gõ cửa các nhà dòng, tu hội là để có cơ hội học hành tốt hơn, thậm chí chỉ là để được đi ra nước ngoài. Khi mục tiêu này trở thành đích nhắm của ơn gọi, người ta sẵn sàng chấp nhận uốn mình vào kỷ luật đời tu trong thời gian huấn luyện để ráng “nín thở qua sông”. Qua tới bờ bên kia, họ trồi lên khỏi mặt nước và tiếp tục con đường của riêng mình!

(3)  Thoát khỏi cảnh nghèo

Ơn gọi tại Việt Nam hôm nay đa số phát xuất từ những gia đình nghèo ở miền quê. Điều này cũng có thể ảnh hưởng đến việc theo đuổi ơn gọi của ứng sinh. Kinh nghiệm thiếu thốn về đời sống vật chất khi còn ở gia đình có thể biến việc theo đuổi ơn gọi như một bù trừ nhằm thoát khỏi cảnh nghèo đói. Đời tu được xem như bảo đảm chắc chắn về đời sống vật chất và sự an toàn cho tương lai. Khi có được những điều mình tìm kiếm, đời tu cũng sẽ chẳng còn ý nghĩa!

(4) Mong được người khác chú ý

Đây là một nhu cầu phát xuất từ khuynh hướng sâu thẳm rất tự nhiên nơi con người: nhu cầu được mọi người chú ý đến. Việc theo đuổi đời tu là một chuỗi ngày tìm kiếm, lôi kéo sự chú ý của người khác dưới mọi hình thức. Những người này thường làm ra vẻ “nhân vật quan trọng”, thường hay lăng xăng trong những dịp đại lễ dù mình chẳng có nhiệm vụ gì! Việc học tập, thay vì được nhìn như phương tiện để có khả năng phục vụ, lại trở thành cơ hội tốt để chơi trội, để “nổi” hơn người khác. Những người này dễ có thái độ ghen tương với bất cứ ai trong cộng đoàn được chú ý hơn họ, hoặc ngấm ngầm tìm cách loại trừ, hạ bệ những ai có khả năng vượt trội hơn họ. Họ không thích làm những việc âm thầm nhưng tìm mọi cách để cho người khác nhìn thấy mình mà ca ngợi.

(5) Mong được người khác nhận biết

Ước muốn được người khác nhận biết cũng là một khuynh hướng căn bản và thâm sâu nơi con người. Khuynh hướng này có thể chi phối các hoạt động của một ơn gọi trong sứ mạng phục vụ. Thay vì nhắm đến ích lợi của người mình được sai đến để phục vụ thì lại tìm kiếm những ích lợi riêng cho chính bản thân mình.

(6) Mong được người khác chấp nhận

Được người khác chấp nhận cũng có nghĩa là được yêu thương, được thấy mình có giá trị. Một người để khuynh hướng này lấn át trong những quyết định chọn lựa hướng đi thì sẽ không đủ cam đảm để đứng về phía chân lý và khó có thái độ cương quyết khi phải quyết định một điều chính đáng và đúng đắn mà làm phật lòng kẻ khác. Lối sống này dễ đưa đến tình trạng “dĩ hoà vi quý”, hoà bình bằng mọi giá, miễn sao mình được người khác chấp nhận là được, không dám lên tiếng trước những sai trái của người khác!           

(7) Ước muốn bù trừ sự thiếu vắng tình cảm trong gia đình

Đây cũng là một sức mạnh tiềm ẩn không ngừng thôi thúc ứng sinh nhằm tìm kiếm bù trừ những thiếu vắng trong các tương quan của thời thơ ấu, đặc biệt trong lĩnh vực tình cảm. Sự thiếu vắng tình cảm của người cha hoặc người mẹ trong những năm tháng ấu thơ dễ làm cho đời sống cảm xúc của một ứng sinh mất đi sự quân bình. Sự thiếu vắng này thôi thúc ứng sinh thiết lập các tương quan khả dĩ bù đắp được những thiếu vắng về nhu cầu tình cảm của bản thân. Những thôi thúc này, nếu không được đưa ra ánh sáng ý thức để thanh luyện và trưởng thành về tâm cảm, sẽ đưa ứng sinh đến các tương quan thiếu lành mạnh, thậm chí nguy hiểm dưới những hình thức “yêu riêng” hoặc lệch lạc tình cảm trong đời tu, gây ra những xáo trộn và ảnh hưởng không tốt đến đời sống chung của một cộng đoàn.

(8) Tìm kiếm sự an toàn cho bản thân

Đời tu được tìm kiếm như một thành luỹ vững chắc cho tương lai. Sự bảo đảm về vật chất và sự an tâm về tương lai biến đời tu như một lối đi an toàn cho bản thân. Những người này sẽ ít dám liều lĩnh dấn thân trong các sứ vụ đụng chạm đến sự an toàn của bản thân, đặc biệt trong những lãnh vực khó khăn hoặc những sứ vụ nhiều thử thách, nguy hiểm đòi sự can trường và tín thác vào quyền năng Chúa.

(9) Tìm kiếm sự kính trọng, danh dự

Đời tu có thể bị biến tướng thành một cuộc tìm kiếm ngấm ngầm hư danh của thế gian nơi những thành công của các công việc tông đồ. Lời khen, tiếng chê của người khác dễ gây ảnh hưởng trên quyết định chọn lựa của ứng sinh trong sứ mạng phục vụ. Đặc biệt, yếu tố danh dự gia đình dễ gây ảnh hưởng lớn đến quyết định theo đuổi ơn gọi của ứng sinh, làm cho ứng sinh mất đi thái độ tự do nội tâm cần thiết trong việc nhận định, tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa trong cuộc đời mình.

(10) Sợ hãi người khác phái

Những kinh nghiệm tiêu cực trong thời gian thơ ấu đối với người khác phái sẽ để lại một nỗi sợ hãi đầy lo âu xao xuyến nơi tâm lý ứng sinh. Quyết định theo đuổi ơn gọi trong đời sống độc thân khiết tịnh vì Nước Trời vốn là một giá trị thiêng liêng tích cực, có thể trở thành sự che đậy nỗi sợ hãi đối với người khác phái khi ứng sinh chọn đời sống tu trì như một tránh né những phiền toái của đời hôn nhân do nỗi sợ hãi này gây ra. Điều này lại càng đúng nếu vết thương tâm lý do một biến cố quá khứ để lại vết thương khó chữa trị trong đời sống tinh thần và tâm linh của ứng sinh. Nỗi sợ hãi này có khi làm tê liệt khả năng thiết lập những tương quan tốt đẹp và lành mạnh trong sứ mạng phục vụ đối với tất cả mọi người khác phái.

Những động lực vô thức trên đây thường xuất phát từ những nhu cầu căn bản không được thoả mãn của thời thơ ấu. Nếu tình trạng này không được đưa ra ánh sáng ý thức để hiểu biết về chính mình, để được thanh luyện và điều chỉnh, thì tiến trình theo đuổi ơn gọi của một bạn trẻ sẽ dễ bị lệch lạc và thiếu vắng sự tự do nội tâm cần thiết cho mọi quyết định của một người trưởng thành về tâm cảm, về thiêng liêng và chín chắn trong ơn gọi. Vai trò của các vị đồng hành thiêng liêng trong tiến trình giúp đỡ các ứng sinh nhận định về ơn gọi của mình hết sức quan trọng. Điều này không chỉ tiến hành trong thời gian của một cuộc tĩnh tâm nào đó là đủ. Nó cần một sự thanh luyện và hoán cải liên tục trong suốt chặng đường ơn gọi để đi đến sự tự do nội tâm hoàn toàn để trở nên một dụng cụ mềm dẻo, dễ sử dụng và hữu hiệu trong bàn tay quyền năng Chúa.

2.1.3  Dụ ngôn lúa tốt và cỏ lùng (Mt 13,24-30)

Dụ ngôn này là một hình ảnh Kinh Thánh có thể  minh hoạ cho chúng ta hiểu rõ hơn về tình trạng lẫn lộn các động lực ý thức và các động lực vô thức trong một ơn gọi cũng như cách thức chúng ta cần tiến hành đối với cả hai loại động lực này.

Người đi gieo hạt giống tốt tương trưng cho một bạn trẻ đến với ơn gọi linh mục tu sĩ với tất cả động lực trong sáng, lành mạnh. Kẻ thù gieo cỏ lùng giữa đồng lúa ban đêm tương trưng cho sự hiện diện của các động lực vô thức không mấy phù hợp với các giá trị Tin Mừng.

Khi lúa mọc lên thì cỏ lùng cũng xuất hiện. Điều này làm cho người gieo giống tốt bối rối và lúng túng. Đó là sự lúng túng của người bạn trẻ tự hỏi không biết mình có ơn gọi tu trì không khi thấy các động lực vô thức lệch lạc xuất hiện trên bình diện ý thức.

Khuynh hướng tự nhiên của người bạn trẻ khi thấy những động lực vô thức xuất hiện là nghĩ đến mình bất xứng với ơn gọi cao quý nên lìa bỏ ơn gọi hoặc nghĩ rằng mình không có ơn gọi. Thái độ này tựa như thái độ của những đầy tớ đề nghị với chủ cho đi nhổ tất cả cỏ lùng trong ruộng lúa đang xanh tốt. Thế nhưng nếu họ làm như vậy thì sẽ có hại đến các cây lúa đang mơn mởn phát triển. Sẽ có những thời điểm thuận tiện để làm công việc luyện lọc này. Cần để cả lúa tốt lẫn cỏ lùng lớn lên đến mùa gặt. Đây là thời điểm một ơn gọi trưởng thành. Sự phát triển nhân bản, thiêng liêng cùng với cảm thức về nhân vị, về căn tính, về trách nhiệm sẽ cùng lớn lên theo. Đó là lúc ngưới ta có khả năng đối diện với các động lực vô thức cách trưởng thành hơn và thích hợp hơn. Đó cũng là lúc ngưới ta có thể đi đến những quyết định tự do hơn dựa trên những gì mình nhận định để sống phù hợp hơn nữa với các giá trị Tin Mừng.

2.1.4  Phân loại ứng sinh

Dựa trên sự pha trộn giữa những động lực ý thức và những động lực vô thức, chúng ta có thể đưa ra 3 loại ứng sinh đến với ơn gọi linh mục tu sĩ:

(1) Ơn gọi như tìm kiếm một địa vị xã hội

Sức hấp dẫn của ơn gọi tu trì đối với loại ứng sinh này là sự pha trộn giữa các thôi thúc ý thức với các thôi thúc vô thức. Trên bình diện ý thức, ứng sinh hiểu rằng ước muốn hy sinh sống đời tu trì sẽ được bù đắp bằng việc đạt đến một vị trí đáng được người khác kính trọng. Tuy nhiên, vẫn có những thôi thúc vô thức đi liền với những chọn lựa ý thức của ứng sinh như ước muốn được người khác chú ý, được nhìn nhận, được kính trọng, được phát triển tài năng cá nhân, thoát khỏi cảnh nghèo... Cũng có khả năng ứng sinh bị cuốn hút bởi các yếu tố bên ngoài như tu phục, biểu tượng của sự quý mến của mọi người hay một bậc sống được mọi người trân trọng.

(2) Ơn gọi như thực hiện một công việc mình thích

Sức hấp dẫn ứng sinh loại này đến với ơn gọi tu trì là một công việc, một sứ mạng cụ thể nào đó. Cuộc sống tu trì là một công việc cụ thể hơn là sự cam kết dâng hiến bản thân.

Xét về động lực ý thức thì nó có thể tích cực hoặc tiêu cực. Tích cực, nếu sức hấp dẫn đến từ một sứ mạng hoặc một sự dấn thân phục vụ. Tiêu cực, nếu nó không đưa đến sự thanh luyện. Điều gì sẽ xảy ra cho một linh mục hoặc một nữ tu loại này nếu vì một tai nạn hoặc một sự cố nào đó, họ không còn khả năng làm việc đó nữa? Điều gì sẽ xảy ra nếu dòng tu ấy không còn điều kiện thi hành sứ mạng qua công việc phục vụ đó nữa? Ví dụ, một thiếu nữ đi tu chỉ vì thích dạy học nhưng bây giờ cộng đoàn không được quyền mở trường nữa chẳng hạn? Có khá nhiều bạn trẻ đến với ơn gọi linh mục tu sĩ thuộc loại thứ hai này. Họ cần được thanh luyện khỏi các động lực vô thức thường không phù hợp với các giá trị Tin Mừng.

(3) Ơn gọi như một dấn thân do xác tín về một giá trị thiêng liêng

Sức hấp dẫn ứng sinh loại này đến với đời sống tu trì là ước muốn gặp gỡ sâu xa với Chúa Giêsu. Họ muốn nên giống Chúa Giêsu trong cung cách hành xử, nơi các nhân đức, các giá trị. Họ ý thức đây là một tiến trình đòi hỏi sự hoán cải liên tục về các thôi thúc, cũng như việc nhận định thiêng liêng để đáp lại lời mời gọi và vượt qua những thách đố để thực thi sứ mạng hằng ngày. Họ ước muốn dấn thân trong ơn gọi để trao ban hơn nữa. Họ trưởng thành về tâm lý và thiêng liêng. Nếu xét về tỉ lệ, ứng sinh loại này chỉ chiếm một số ít. Họ vẫn có những ước mơ đóng góp vào việc làm biến đổi thế giới và làm cho thế giới trở thành một nơi xứng đáng hơn để ở. Họ sinh nhiều hoa trái thiêng liêng trong cuộc sống dâng hiến và tông đồ.

Trong hoàn cảnh thực tế hiện nay của Việt Nam, các bạn trẻ cần được chuẩn bị trong những năm tìm hiểu và nhận định ơn gọi để có thể đi từ loại một và loại hai sang loại ba. Các ứng sinh loại cuối cùng này sẽ có sự bền vững nhất trong tiến trình theo đuổi và sống ơn gọi dâng hiến và tông đồ cách sung mãn. Đây là loại ứng sinh có những dấu chỉ tốt nhất về ơn gọi tu trì.

2.2 Các yếu tố bên ngoài

Ngoài các yếu tố quan trọng bên trong, chúng ta còn chú ý nhận định một số các yếu tố bên ngoài sau đây xem ứng sinh có phù hợp với ơn gọi không:

(1) Sức khoẻ: Ứng sinh cần có sức khoẻ tốt và bền bỉ để có thể theo đuổi ơn gọi và thi hành sứ mạng tông đồ trong tương lai. Hiện nay, nên chú ý đến tình trạng bệnh lý về tim mạch do cuộc sống có nhiều căng thẳng gây ra nơi các em. Cần lưu ý đến các yếu tố tâm lý có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ thể lý, đặc biệt những xung đột nội tâm.

(2) Tuổi tác: Không nên quá trẻ, cũng không nên quá lớn tuổi. Độ tuổi tốt nhất hiện nay khoảng từ 18 đến 24 tuổi. Tuổi càng lớn sẽ càng khó huấn luyện vì hầu hết nhân cách và quan niệm sống của một người đã hình thành. Ứng sinh càng lớn tuổi càng khó có khả năng biến đổi trong quá trình huấn luyện.

(3) Trưởng thành thiêng liêng: Có nền tảng cần thiết cho một đời sống đức tin vững chắc vào Thiên Chúa. Biết cách cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Yêu mến sự gắn bó kết hiệp mật thiết với Chúa. Siêng năng lãnh nhận các bí tích, đặc biệt bí tích Hoà Giải và Thánh Thể. Có hiểu biết căn bản về Giáo lý Công giáo. Tham gia một số các hoạt động tông đồ cụ thể trong giáo xứ hoặc những hình thức phục vụ xã hội khác. Có những đức tính căn bản như sự chân thật, lòng trung tín, quảng đại phục vụ, không sợ hy sinh.

(4) Trưởng thành tâm cảm (Psycho-emotional maturity): Ứng sinh cần có mức độ trưởng thành về tâm cảm cần thiết để cuộc sống được quân bình trong mối tương quan với những anh chị em khác trong cộng đoàn. Có khả năng thiết lập những tương quan lành mạnh trong đời sống tông đồ phục vụ. Cần chú ý đặc biệt khả năng sống đời sống khiết tịnh thánh hiến trong bối cảnh xã hội văn hoá mở cửa hôm nay. Không rơi vào các mặc cảm tự ti hoặc tự tôn vốn cản trở sự phát triển của một nhân cách tôn giáo lành mạnh. Khả năng biết mình và sống tự do nội tâm.

(5) Khả năng trí thức: Cần có khả năng trí thức trung bình hoặc cao hơn tuỳ mức đòi hỏi của chủng viện, dòng tu, tu hội. Khả năng này nhằm đáp ứng việc tiếp nhận những kiến thức về đời sống đức tin, những môn học cần thiết trong quá trình huấn luyện. Khả năng này thường được đánh giá qua chỉ số IQ (Intelligence Quotitent). Nhưng cần lưu ý, chỉ số này chỉ mang tính tham khảo về khả năng ứng sinh chứ không có tính quyết định để được nhận hay không. Một ứng sinh có thể rất thông minh nhưng lại thiếu khả năng sống tương quan trong cộng đoàn hoặc khả năng tạo lập những tương quan lành mạnh với tha nhân trong cuộc sống phục vụ. Các nghiên cứu chuyên môn cho thấy không có mối tương quan chặt chẽ giữa chỉ số thông minh (IQ) và mức độ trưởng thành về tâm cảm (EQ).

(6) Một số các đòi hỏi khác: Tuỳ theo mỗi linh đạo và đặc sủng phục vụ mà ứng sinh cần đáp ứng một số các điều kiện khác như khả năng viết lách, thuyết giảng, chăm sóc bệnh nhân, sống với người nghèo, thích ứng được với các vùng truyền giáo…

LỜI KẾT

(1) Vừa là một mầu nhiệm đến từ tiếng gọi của Thiên Chúa, vừa là một tiến trình nhận định thiêng liêng từ phía con người để đọc và khám phá ra dấu chỉ ơn gọi nơi các bạn trẻ, tiến trình nhận định ơn gọi tu trì vừa đòi hỏi những vị đồng hành thiêng liêng nhiều kinh nghiệm nhân bản và thiêng liêng, vừa có những hiểu biết sâu xa về con người, đặc biệt là hiểu được tâm thức và ngôn ngữ của các bạn trẻ hôm nay để giúp họ khám phá tiếng gọi của Chúa và quảng đại đáp trả.

(2) Để vun trồng ơn gọi nơi người trẻ, ước muốn mà thôi vẫn chưa đủ. Cần giúp các bạn trẻ hiểu biết và nhận ra điều gì đang thúc đẩy mình tìm đến với ơn gọi. Cần làm sáng tỏ cả động lực ý thức lẫn các động lực vô thức để đi đến một nhận định thiêng liêng sâu xa về lịch sử  của từng ơn gọi.

(3) Ơn gọi, trước hết là lời mời gọi trở nên một con người có niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa. Kế đến là lời mời gọi bước vào một lối sống, lối sống nhân bản, làm người, nền tảng căn bản cho mọi tiếng gọi khác. Từ đây, người trẻ mới có khả năng đáp trả tiếng gọi của niềm tin, đi theo Chúa Kitô một cách triệt để trong đời sống tu trì và dâng hiến của linh mục, tu sĩ để lớn lên trong sự phát triển hài hoà giữa nhân bản và thiêng liêng nhờ hiểu biết hơn về chính mình.

(4) Dù con người có một phần tự do và một phần không hoàn toàn tự do nhưng Thiên Chúa mời gọi chúng ta lớn lên trong tự do mà Chúa đã tạo dựng. Chúa muốn chúng ta tự do trong việc đáp trả tiếng Chúa kêu gọi khi quyết định chọn lựa đời sống linh mục, tu sĩ.

(5) Động lực ơn gọi là nhân tố chính yếu để bảo đảm cho sự bền vững của ơn gọi tu trì. Mỗi ơn gọi đều pha trộn giữa những động lực ý thức với những động lực vô thức. Những động lực vô thức cần được đem ra ánh sáng để được thanh luyện từ từ theo các giá trị Tin Mừng. Nếu những động lực vô thức này không được thanh luyện, một người sẽ trở nên khuyết tật về nhân cách và không thể trưởng thành để sống ơn gọi linh mục tu sĩ cách tốt đẹp và đem lại hoa trái thiêng liêng cho cuộc sống phục vụ.

(6) Sau cùng, ơn gọi tu trì hướng đến tâm điểm là chính con người của Đức Giêsu, mẫu mực của mọi ơn gọi. Đáp lại tiếng Chúa mời gọi là noi theo cung cách sống và hành xử của chính Chúa trong sứ mạng yêu thương và phục vụ cho sự sống của tha nhân như Chúa Giêsu: “Tôi đến để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

 

Bên tay tôi còn văng vẳng lời nhắn gởi của người nhạc sĩ bại liệt (Đức Nghị), tàn mà không phế: “Tôi chỉ muốn qua những tác phẩm của mình gởi đến mọi người lời Tạ Ơn của một bệnh nhân sống nhờ và sống trong Niềm Tin và Hy Vọng. Dù sao đi nữa tôi vẫn tin Chúa là Cha nhân từ. Tôi “chọn Chúa” chứ không chọn “việc của Chúa”. “Việc của Chúa” nếu tôi không làm sẽ có người khác làm. Nếu tôi chỉ chọn “việc của Chúa” thì khi thành công tôi sẽ kiêu ngạo, lúc thất bại tôi sẽ chán nản ngã lòng, khi không được làm công việc đó nữa tôi sẽ bị hụt hẫng. Alleluia, chính vì tôi đã “chọn Chúa” nên tôi chỉ làm theo Ý Chúa, chỉ phó thác cho Lòng Thương Xót của Chúa nên tôi luôn được bình an giữa bao giông tố cuộc đời… vì tôi luôn nhận ra trong mọi biến cố TẤT CẢ LÀ HỒNG ÂN!” (Lãng Tử).

 

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Về việc xét xem mình có ơn gọi đi tu nào: ơn gọi làm linh mục hay làm tu sĩ. Thì có những chia sẽ như sau: xem ý thích của mình và lời mời gọi của các vị có chức vị trong hội thánh…( diễn đàn Khúc cảm tạ .net)

 

------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

 

 

Ngoài những dấu chỉ trên còn có thể có những dấu chỉ siêu nhiên (như thánh Bosco chẳn hạn-được mệnh danh là vị thánh “mộng mị”-các bạn tự tìm hiểu, hay Thánh Giuse, hay chị thánh Catarina thành Siena, hay thánh Phaolô tông đồ, hay thánh Augustino tiến sĩ…).Nhưng hãy coi chừng, bởi vì cũng có những việc siêu nhiên đến từ phía ma quỷ, hay “trông gà hóa cuốc” (bất an). Nếu đến từ Chúa, Người cũng sẽ có cách làm cho ta biết cách chắc chắn (bình an).

 

-----------------------------------------------------------------------------------------------------------

 

Đặc biệt nếu ai thấy khó quá thì hãy cầu nguyện cùng cha Gioan Vianney bổn mạng các linh mục để xin cha chỉ dẫn. Hãy cầu nguyện với một niềm tin tuyệt đối chắc chắn cha Gioan sẽ nhận lời.( vì có rất nhiều người xin cha điều này và cha chưa từ chối ai bao giờ và những người nghe lời cha điều được mĩ mãn- xem sách “Cuộc Đời Cha Thánh Gioan Vianney”).

 

 

Như Đức cố HY Nguyễn Văn Thuận: “ Chọn Chúa( thánh ý Chúa) chứ không phải việc của Chúa”. Việc của Chúa thì tốt, nhưng Chúa mới là trọng tâm. Nếu làm việc của Chúa mà không có Chúa cũng vô ích. Đó chính là tình yêu trong trái tim ta dành cho Chúa khi thực hiện công việc(dù ở bất kỳ bậc sống nào: linh mục, hay tu sĩ...);chọn Chúa thì tất nhiên cũng phải vâng theo ý Chúa. Đó mới là quan trọngà làm việc không vì mục đích vinh danh bản thân, hay tìm mình; nhưng vì vinh danh Chúa và cứu rổi các linh hồn (Chúa rất vui thích và muốn điều đó), mà cứu rỗi các linh hồn thì cũng làm vinh danh Chúa-> vớ một tâm hồn và một đời sống :luôn Mến yêu Chúa hết lòng, luôn Tin tưởng, luôn Cậy trông, thánh thiện, khiêm nhường, hy sinh hãm mình đền tội, cầu nguyện, bác ái, rao giảng, nhiệt thành, phó thác, gương sáng, vâng phục….từ bỏ ý riêng, chỉ tìm thánh ý Chúa. (như cha Gioan Maria Vianney bổn mạng các linh mục).

Tìm việc của Chúa là cái bẩy tinh vi tìm ẩn sự kiêu ngạo,tìm mình. (tự thuật HY Nguyễn Văn Thuận).

Việc tìm ra ý Chúa dành cho ta thật là quan trọng nếu không thì sẽ dễ gặp thất bại, chán nãn, vì Chúa biết con đường nào tốt nhất dành cho ta để được ơn cứu độ. Nếu ý riêng ta cứ muốn đi con đường khác với thánh ý Chúa thì tâm hồn sẽ khó tìm được bình an. Không phải vì Chúa ghét ta nhưng tại vì ta khó có thể chu toàn được con đường mình đã chọn sai (theo ý riêng). Khi nhận ra và vâng theo ý Chúa linh hồn sẽ được tràn đầy bình an và dễ tiến lên trên con đường nên thánh.

 

“Nguyện cầu, suy nghĩ, hỏi bàn, vui theo ý Chúa hân hoan đất trời” (dòng Biển Đức).

                                  

 

 Sau cùng                 SỐNG THEO Ý  CHÚA là hơn hết

 

      Điều Cha nói đây với các linh hồn cảm thấy ngại ngùng trong đời viện tu khiêm nhường kín đáo, Cha cũng muốn nhắc lại với các con đã được gọi đi hoạt động phục vụ thế gian, đang khi ý riêng thích quay về đời sống âm thầm thanh vắng.

      Hỡi các linh hồn yêu dấu, các con nên biết rằng : Sống không ai biết đến, hay người đời biết đến, dùng hay không dùng những tài năng, các con đã được quí trọng nhiều hay ít, khoẻ mạnh hay không, tất cả những cái ấy, không cái nào nguyên nó là hạnh phúc của các con. Các con có biết một điều duy nhất nào sẽ bảo đảm hạnh phúc ấy không ? Chính là Vâng theo ý Chúa yêu mến nhận lấy, và kết hợp lòng với những điều Chúa đòi hỏi để thêm vinh danh, thánh thiện cho Người.  ( Trích “Tiếng Gọi Tình Yêu” -Un Appel à L'Amour- Thông điệp Chúa Giêsu gửi thế giới Qua Sơ Josepha Menendez Dòng Thánh Tâm năm 1890-1923).

                                                                  - - - - - - - - - - - - - ---------------------------------------  - - - - - - -

Không thể tuân giữ các điều truyền, nếu không vâng theo các lời khuyên. Linh hồn chọn cách sống ở bậc nào tuỳ ý, miễn là ý muốn tốt lành và thánh thiện, thì mới đẹp lòng Chúa.

1.           Cha đã nói với con rằng: những người được soi sáng bởi đức tin, thì biết khử trừ nọc độc của giác quan bằng thanh gươm hai lưỡi, tức gớm ghét nết xấu và yêu mến nhân đức; còn những kẻ chỉ được soi sáng bằng lý trí, thì kiếm cho mình được vàng bạc trần gian, và tích trữ. Nhưng những người muốn đạt tới sự trọn lành, thì khinh chê tất cả của cải này trong thực hành và trong tinh thần: đó là những người tuân theo lời khuyên mà Đấng Chân Lý của Cha đã dạy họ.

 

Có những kẻ tuân giữ các điều truyền, tức các giới răn, nhưng chỉ vâng theo các điều khuyên trong tinh thần thôi, chứ không bằng thực hành. Nhưng bởi vì các lời khuyên được liên kết với các điều truyền nên không ai có thể tuân giữ điều truyền mà không vâng theo lời khuyên, ít là trong tinh thần. Nếu có những tài sản trần gian, người ta phải sử dụng chúng cách khiêm tốn, không kiêu kỳ, phải coi đó là những của cải cho mượn, chứ mình không có trọn quyền làm chủ. Mọi tốt lành của Cha, đã được đặt dưới quyền các con, để các con sử dụng và hưởng dùng. Các con có được, là bởi Cha ban cho; các con được giữ lấy, là vì Cha muốn cho các con hưởng dùng. Cha ban cho là để các con sử dụng, vì Cha thấy những của cải ấy có ích lợi cho ơn cứu độ các con. Đó là cách thức các con hưởng dùng và sử dụng

 

Khi sử dụng của cải như thế, con người sẽ tuân giữ các giới răn bằng cách yêu mến Cha trên hết mọi sự, và thương yêu tha nhân như chính mình. Họ sống bằng trái tim được tẩy sạch mọi mơ ước, vì họ chỉ yêu thích và nắm giữ của cải theo Thánh ý Cha. Họ thủ đắc của cải một cách trần tục, nhưng không vì thế mà họ bỏ cách lời khuyên Phúc Âm trong tâm hồn họ; bởi vì, họ đã loại bỏ được tình yêu mến vô trật tự.

 

Những ai hành xử như thế, là ở trong đức ái chung. Còn ai tuân giữ các điều truyền và các lời khuyên không những trong tinh thần, mà cả trong thực hành nữa, thì đó là những người ở trong đức ái trọn lành. Họ vâng theo cách đơn sơ lời khuyên của Ngôi Lời nhập thể, Đấng đã nói với người thanh niên đến hỏi Ngài: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống vĩnh cửu?” Chúa trả lời anh: “Anh hãy tuân giữ các giới răn của luật dạy”. Người ấy thưa: “Tôi đã tuân giữ các giới răn”. Và Chúa liền bảo anh ta: “Tốt lắm! Nếu anh muốn trở nên trọn lành, anh hãy đi bán những tài sản của anh và bố thí cho người nghèo” (Mt 19:16-21). Lúc ấy, người thanh niên này buồn rầu: anh còn gắn bó với của cải, quyến luyến của cải, bởi vậy anh ta buồn rầu. Ngược lại, những người trọn lành vâng theo cả lời khuyên; họ từ bỏ của cải vật chất, cùng mọi sự vui thú thế gian. Họ sống khắc khổ bằng thức khuya dậy sớm, hãm mình, và siêng năng cầu nguyện.

 

Còn những kẻ ở trong đức ái chung, họ không thật sự từ bỏ những của cải họ có. Họ không mất sự sống vĩnh cửu đâu, bởi vì họ không buộc phải làm như thế, chỉ cần làm như Cha đã dạy con. Khi chiếm hữu của cải, họ không phạm tội gì hết, bởi vì mọi sự đều tốt lành, tuyệt hảo, vì chúng được tạo dựng bởi Cha là Đấng tốt lành vô cùng, để phục vụ các thụ tạo có lý trí của Cha, chứ không phải để cho các thụ tạo ấy trở thành nô lệ cho những lạc thú trần gian. Vậy, những ai không ước ao đạt tới mức trọn lành và còn muốn giữ lấy của cải, thì phải sở hữu của cải như những ông chủ, chứ không làm nô lệ cho của cải, họ phải dành mọi ước vọng cho Cha. Ngoài ra, họ phải yêu chuộng mọi sự như được cho vay mượn để phục vụ họ, chứ không phải để họ lấy làm của mình. Cha không nhìn vào con người hay địa vị của nó, nhưng chỉ nhìn vào những ước nguyện thánh thiện của nó. Cho nên, trong mọi bậc sống mà người ta chọn, chỉ cần một điều, là ý muốn của họ phải tốt lành, thánh thiện, phù hợp với Thánh ý Cha. Nhưng ai có thể giữ mình được như thế, dầu ở bất cứ hoàn cảnh nào? Đó là những người đã khử trừ được nọc độc, bằng sự chê ghét dục tình của mình và có lòng yêu mến nhân đức. Sau khi đã dứt khỏi nọc độc này của ý muốn vô độ, và sau khi đã điều chỉnh ý muốn của mình cho ngay thẳng bằng tình yêu thánh thiện và kính sợ Cha, con người có thể lựa chọn và nắm giữ bậc sống mà nó ưa thích; trong mọi bậc sống, nó phải ăn ở cách nào để được sự sống muôn đời. (Trích Đối Thoại-Mạc khải Chúa Cha cho thánh Catarina Siena)

                                                                        Hết.