Trả ta sông núi

Vũ Hoàng Chương

Nhân ngày kỷ niệm liệt sĩ


Trải bốn nghìn năm dựng nước nhà

Sông khoe hùng dũng, núi nguy nga

Trả ta sông núi bao người trước

Gào thét đòi cho bọn chúng ta…

Trả ta sông núi từng trang sử

Dân tộc còn nghe vọng thiết tha

Ngược vết thời gian, cùng nhắn nhủ:

Không đòi, ai trả núi sông ta


Cờ báo phục hai bà khởi nghĩa

Ðuổi quân thù, xưng đế một phương

Long Biên sấm dậy sa trường

Ba thu xã tắc, miếu đường uy nghi

Xót nòi giống, quản chi bồ liễu

Dòng Cẩm Khê còn réo tinh anh

Một phen sông núi tranh giành

Má hồng ghi dấu sử xanh đời đời


Bể dâu mấy cuộc đổi dời

Lòng trăm họ vẫn dầu sôi bừng bừng

Mai Hắc Ðế, Phùng Hưng, Bố Cái

Liều thế cô dằng lại biên cương

Ðầu voi, Lệ Hải Bà Vương

Dù khi chiến tử vẫn gươm anh hào

Tinh thần độc lập nêu cao

Sài lang kia, núi sông nào của ngươi?

Núi sông ấy của người dân Việt

Chống Bắc phương, từng quyết thư hùng

Ngô Quyền đại phá Lưu Cung

Bạch Ðằng Giang nổi muôn trùng, sóng reo

Hồn tự chủ về theo lửa đuốc

Chữ thiên thu: Nam Quốc sơn hà

Phá tan nghịch lỗ không tha

Tướng quân Thường Kiệt gan già mấy mươi

Gươm chiến thắng trỏ vời Ðông Bắc

Hịch vải nêu tội giặc tham tàn

Dựng nhân nghĩa, vớt lầm than

Danh thơm ải ngoại, sấm ran biên thuỳ

Khí thiêng toả chói tư bề

Phường đô hộ có gai ghê ít nhiều?…


Cửa Hàm Tử vang teo vết cáo

Bến Chương Dương cướp giáo quân thù

Trận Ðà Mạc dẫu rằng thua

Làm Nam quỷ, chẳng làm vua Bắc đình

Chém kiêu tướng, đồn binh Tây Kết

Triều Phú Lương gầm thét giang tân

Phá cường địch báo hoàng ân

Trẻ thơ dòng máu họ Trần cũng sôi

Kìa trận đánh bèo trôi, sóng dập

Sông Bạch Ðằng thây lấp xương khô

Những ai qua lại bây giờ

Nghe hơi gió thoảng, còn ngờ quân reo

Hịch Vạn Kiếp lời khêu tướng sĩ

Hội Diên Hồng quyết nghị toàn dân

Khuông phù một dạ ân cần

Vó thiêng ngựa đá, hai lần bùn dây

Sơn hà mấy độ lung lay

Máu bao chiến sĩ nhuộm say mầu cờ


Cảm ý núi ngồi mơ độc lập

Thuận tình sông trôi gấp tự do

Ấy ai đầu dựng cơ đồ

Gấm thêu lời chiếu Bình Ngô thuở nào

Cơn nguy khốn ra vào sinh tử

Thân nằm gai, lòng giữ sắt son

Linh Sơn lương chúa hao mòn

Quân tan Côi Huyện, chẳng còn mảy may

Chén rượu ngọt cùng say thấm thía

Tình cha con mà nghĩa vua tôi

Thuận dân là hợp ý trời

Sử xanh chót vót công người Lam Sơn


Quốc dân chung một mối hờn

Cần câu đánh giặc mà hơn giáo dài

Chống ngoại địch, gươm mài quyết chiến

Voi Quang Trung thẳng tiến kinh kỳ

Phá Thanh binh trận Thanh Trì

Sông Hồng khoảng khắc lâm ly máu hồng

Núi dậy sấm cho sông loè chớp

Cờ Tây Sơn bay rợp Bắc Hà

Xác thù xây ngất Ðống Ða

Bụi trường chinh hãy còn pha chiến bào


Tinh thần độc lập nêu cao

Sài lang kia, núi sông nào của ngươi

Cường quyền vẫn muôn đời cưỡng áp

Dưới bàn tay giặc Pháp càng đau

Chúa tôi nhỏ lệ cùng nhau

Khua chiêng hải ngoại, rừng sâu kéo cờ

Dạ Cần Vương trơ trơ thiết thạch

Kẻ Văn Thân, hiệp khách cùng chung

Hoàng Hoa Thám, Phan Ðình Phùng

Khói reo Thanh Nghệ, lửa bùng Thái Nguyên

Hợp Nghĩa Thục kết liên đồng chí

Xuất dương tìm tri kỷ Ðông Ðô

Phan Sào Nam, Phan Tây Hồ

Long đong bốn bể, mưu đồ cứu dân

Vận nước chửa hết tuần bĩ cực

Sức người khôn đọ sức ông xanh

Mỗi phen gắng gỏi tung hoành

Thương ôi! sự nghiệp tan tành mỗi phen

Nguyễn Thái Học gan bền, chí cả

Họp đồng bang gióng giả nên đoàn

Rừng xanh bụi cỏ gian nan

Mong đem nhiệt huyết dội tan cường quyền

Tổ chức việc tuyên truyền, ám sát

Khắp nơi nơi, từng hạt, từng châu

Xiết bao hy vọng buổi đầu

Một đêm Yên Bái ngờ đâu tan tành


Ôi Việt sử là tranh đấu sử

Trước đến sau cầm cự nào ngơi

Tinh thần độc lập sáng ngời

Bao người ngã, lại bao người đứng lên


Ngày nay muốn sông bền, núi vững

Phải làm sao cho xứng nguời xưa

Yêu nòi giống, hiểu thời cơ

Bốn phương một ý: phụng thờ giang sơn

Ðừng lo yếu, hãy chung hờn

Cần câu đánh giặc từng hơn giáo dài


Trả núi sông ta! lời dĩ vãng

Thiên thu còn vọng đến tương lai

Trả ta sông núi! câu hùng tráng

Là súng là gươm giữ đất đai


Trông lên cao ngất phương trời

Hồn thiêng liệt sĩ bừng tươi sắc cờ.


Bài thơ này đã được Lê Tấn Dương phổ nhạc.