Đề Vũ Thị từ 題武氏祠 • Đề đền thờ Vũ Thị


Nguyễn Khuyến

Khế khoát tam đông nhất tiết trinh,

U hoài phân phó quỷ thần minh.

Ngu phu bất biện vô căn báng,

Giả phụ phiên gia bất khiết danh.

Kim nhật giang ba do hữu hận,

Hà niên đăng ảnh thái vô tình.

Lập từ tinh tiết hồn nhàn sự,

Từ vị giai nhân tả bất bình.


題武氏祠


契闊三冬一節貞,

幽懷分付鬼神明。

愚夫不辨無根謗,

假父翻加不潔名。

今日江波猶有恨,

何年燈影太無情。

立祠旌節渾閒事,

詞為佳人冩不平。


Xa cách ba đông, vẹn tiết trinh,

Nhớ nhung riêng tỏ với thần minh.

Chồng ngu chẳng hiểu lời vô cớ,

Cha giả càng đeo tiếng bất minh.

Sóng nước ngày nay còn uất hận,

Bóng đèn đêm ấy quá vô tình.

Giải oan xây miếu đều vô ích,

Thơ viết vì ai tỏ bất bình.

Bản dịch của Trần Văn Nhĩ


Đền thờ Vũ Thị ở bờ sông Hồng thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Theo Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, đền thờ Vũ Thị Thiết có chồng họ Trương. Khi nàng có mang thì chồng đi lính, sau sinh con trai là Đản. Mỗi tối khi thắp đèn, nàng lại chỉ bóng đèn trên vách vào bảo con là “Cha đấy”. Khi chồng trở về, con nhỏ không nhận ra và nói “Cha Đản cứ đến tối mới về, mẹ đi đâu, cha đi đấy, ngồi cùng ngồi, nằm cùng nằm”. Họ Trương nghi vợ có tình riêng với người khác, mắng nhiếc và đuổi đi. Nàng phân trần không được bèn đâm đầu xuống sông tự trầm. Một đêm, hai cha con ngồi với ngọn đèn, bé Đản chỉ bóng che trên vách bảo “Cha đấy”. Họ Trương biết vợ bị oan bèn cúng giải oan. Người sau thương nàn oan khuất, lập đền thờ, nay gọi là miếu bà Trương, ở làng Trương Xá.