Trung thu không có trăng, ba ngày sau bỗng nhiên trời tạnh, cảm tác


Nguyễn Khuyến

Trung thu vô nguyệt, tam nhật hậu hốt nhiên tình, cảm tác


Bình dã dĩ vô sơn thuỷ du,

Kiêm chi sắt sắt tây phong sầu.

Bất tri hà xứ ẩn minh nguyệt,

Nãi sử thử ông tao bạch đầu.

Thoá mạ văn chương thành biến nhã,

Tiêu điều cảnh sắc nhập thanh thu.

Hốt nhiên vãn kiến âm vân tán,

Trúc ảnh hoành can nhất tiểu chu.


中秋無月三日後忽然晴感作


平野已無山水遊,

兼之瑟瑟西風愁。

不知何處隱明月,

乃使此翁搔白頭。

唾罵文章成變雅,

蕭條景色入聲秋。

忽然晚見陰雲散,

竹影橫竿一小舟。


Ở đồng bằng đã không có núi sông để du ngoạn,

Lại thêm gió tây hiu hắt làm cho người ta buồn.

Không biết trăng sáng ẩn náu ở nơi nào,

Khiến cho ông già này chỉ gãi mái đầu bạc.

Văn chương mỉa mai thành ra thể biến nhã,

Cảnh tượng tiêu điều hoà vào sắc thu trong.

Bỗng nhiên chiều về mây đen tan đi,

Trong bóng trúc một con thuyền nhỏ gác ngang cây sào.


Bản dịch của Đỗ Ngọc Toại

Đồng quê sông núi có gì dâu,

Heo hắt hơi may lại gợi sầu.

Chẳng biết dì trăng đâu nấp bóng,

Để cho ông lão những vò đầu.

Văn chương mai mỉa đều thay giọng,

Phong cảnh đìu hiu đã nhuốm thu.

Bỗng thấy mây tan trời lại sáng,

Bóng tre thấp thoáng chiếc thuyền câu.