An ủi chú Hoàng nguyên tri huyện Nam Xang


Nguyễn Khuyến

Giang vân xuân thụ cửu huyền huyền,

Nhất biệt kinh kim thập nhị niên.

Ngẫu kiến đố ngư xuyên lục trúc,

Bất kham tàn lệ khấp thanh biên.

Hào ngâm dật hứng thiên bôi tửu.

Tế vũ hàn phong nhị nguyệt thiên.

Tụ tán thăng trầm hữu như thử,

Bằng song khởi độc vị quân liên.




奉慰原南昌尹黃叔


江雲春樹久懸懸,

一別經今十二年。

偶見蠹魚穿綠竹,

不堪殘淚泣青編。

豪吟逸興千杯酒。

細雨寒風二月天。

聚散昇沉有如此,

憑窗起讀為君憐。

Bầu bạn thân tình, mãi bặt tăm,

Chia tay từ ấy đã mười năm.

Bỗng nghe mọt ruỗng xơi tre lục,

Chẳng để lệ tàn khóc sử xanh.

Hứng vút ngâm vang, nghìn chén rượu,

Mưa bay gió lạnh nửa mùa xuân.

Thăng trầm tan hợp là như thế,

Tựa cửa đâu riêng xót chú Hoàng.

Bản dịch của Trần Văn Nhĩ


Tình bạn thân thiết từ lâu xa cách,

Chia tay nhau đến nay đã mười hai năm.

Bỗng thấy đám mọt đục tre lục,

Không thể đem chút nước mắt còn sót lại mà khóc với sử xanh.

Cao hứng ngâm vang uống ngàn chén rượu,

Gió lạnh mưa phùn trong cảnh tháng hai.

Nỗi tan hợp cảnh thăng trầm là như thế đấy,

Tựa cửa sổ đâu phải chỉ xót riêng cho chú mà thôi!



Chú Hoàng tức Hoàng Văn Tuấn (1823-1892) quê làng Đô Hoàng, nay thuộc xã Yên Thành, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, đỗ giải nguyên năm 1870, từng làm tri huyện Nam Xang (nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định). Ông tham gia cuộc vũ trang chống Pháp do Phạm Văn Nghị tổ chức và phong trào Cần Vương, sau đó bị Pháp bỏ tù. Em ông là Hoàng Kim Chung, thầy học của Nguyễn Khuyến.


Nguồn: Trần Văn Nhĩ, Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Khuyến, NXB Văn Nghệ, 2005