Xuân hàn 春寒 • Rét mùa xuân


Nguyễn Bỉnh Khiêm

Thập nhị thiều quang xuân nhất đoàn,

Nhất thiên liệu tiễu tống dư hàn.

Khinh âm tá vũ xâm hoa dị,

Tàn tuyết nhân phong truỵ liễu nan.

Tú thát giai nhân đê ngọc trướng,

Hương nhai tuý khách xúc kim an.

Toàn kiền tự hữu thần công tại,

Dĩ bá dương hoà mãn tế bàn.


春寒


十二韶光春一團

一天料峭送餘寒

輕陰借雨侵花易

殘雪因風墜柳難

繡闥佳人低玉帳

香街醉客促金鞍

還建自有神功在

已播陽和滿祭繁


Dịch nghĩa

Mười hai thiều quang, một vừng xuân sắc,

Một ngày lành lạnh tiễn đưa cái rét còn lại.

Trời râm mát nhờ mưa dễ thấm vào bông hoa,

Tuyết tàn bị gió rơi xuống cành liễu.

Giai nhân trong phòng gấm rủ thấp màn ngọc,

Ngoài đường sực nức hoa thơm, khách say giục giã yên vàng.

Xoay chuyển càn khôn, tự có công phu thần diệu,

Đã gieo rắc khí dương hoà khắp cả trời đất.


Bản dịch của Trương Việt Linh

Một vừng xuân sắc trải mười hai,

Hơi lạnh se se toả môt trời.

Mưa nhẹ ngày râm hoa dễ thấm,

Gió to cành liễu tuyết khôn rơi.

Khách say phố ngọc cương dong vội,

Phòng gấm giai nhân trướng thả lơi.

Xoay chuyển càn khôn thần diệu lắm,

Khí dương đã toả khắp nơi nơi.

Nguyễn Bỉnh Khiêm