https://vi.wikipedia.org/wiki/6_Sigma
Sáu Sigma hay 6 Sigma là hệ thống bao gồm các công cụ và chiến lược nhằm nâng cao quá trình hoạt động do hãng Motorola phát triển đầu tiên vào năm 1985.[1][2] 6 Sigma trở nên phổ biến sau khi Jack Welch áp dụng triệt để nó trong chiến lược kinh doanh của ông tại General Electric năm 1995,[3] và ngày nay phương pháp này được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực công nghiệp khác nhau.[4]
Mục đích của 6 Sigma là nâng cao chất lượng của quá trình cho ra thành phẩm bằng cách nhận diện và loại bỏ những nguyên nhân gây lỗi, khuyết tật và giảm thiểu tối đa độ bất định trong sản xuất và hoạt động kinh doanh.[5] Đây là hệ thống các phương pháp quản lý chất lượng, bao gồm các phương pháp thống kê, và tạo ra một nền tảng kiến thức đặc biệt cho những người quản lý trong tổ chức ("Champions", "Black Belts", "Green Belts", "Orange Belts", etc.), những chuyên gia áp dụng các phương pháp phức hợp.[5] Mỗi dự án của một tổ chức áp dụng Six Sigma theo một dãy các bước xác định và phải định lượng ra được giá trị của các mục tiêu, ví dụ; giảm thiểu thời gian sản xuất, độ thỏa mãn của khách hàng, giảm chất thải gây ô nhiễm môi trường, giảm chi phí sản xuất và/hoặc nâng mức lợi nhuận.[5][6]
Thuật ngữ Six Sigma có nguồn gốc từ điều hành sản xuất, nó gắn liền với các thuật ngữ trong mô hình thống kê về quá trình chế tạo sản phẩm. Hiệu năng của một quy trình sản xuất có thể được đánh giá bằng mô hình sigma về tỉ lệ phần trăm số sản phẩm bị lỗi hay khuyết tật so với tổng sản phẩm mà quy trình tạo ra. Quy trình six sigma dự đoán về mặt thống kê 99,99966% thành phẩm đạt yêu cầu thiết kế (3,4 trên 1 triệu sản phẩm bị lỗi), mặc dù lượng thành phẩm khuyết tật này tương ứng với mức nhỏ hơn là 4,5 sigma. Hãng Motorola đặt ra mục tiêu "6 sigma" cho mọi hoạt động sản xuất của hãng, và mục tiêu này trở thành đích đến cho các nhà quản lý và kỹ sư thiết kế.[6]
6 Sigma đo lường các khả năng gây lỗi chứ không phải các sản phẩm bị lỗi. Mục đích của 6 Sigma là cải thiện các quy trình ngăn những vấn đề khuyết tật và lỗi không xảy ra, thay vì chỉ tìm ra các giải pháp ngắn hạn hoặc tạm thời để giải quyết vấn đề. 6 Sigma sẽ chỉ dẫn điều tra và kiểm soát các tác nhân chính, nhằm ngăn ngừa lỗi xảy ra ở ngay công đoạn đầu tiên.[6]
Năm 2011, Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO đã xuất bản bộ tiêu chuẩn các phương pháp định lượng 6 Sigma nhằm nâng cao quy trình hoạt động.[7]
https://vietquality.vn/lich-su-cua-six-sigma/
Lịch sử ra đời của Six Sigma thường được biết đến từ các công ty lớn như Toyota và Motorola, nhưng phương pháp này thực sự đã có từ thế kỷ 19. Trước khi đi sâu vào lịch sử của Six Sigma, điều quan trọng là phải hiểu được sự khác biệt giữa quản lý chất lượng truyền thống, như Quản lý chất lượng toàn diện (TMQ) và các phương pháp cải tiến quy trình liên tục, như Six Sigma.
Hầu hết các phương pháp cải tiến và chương trình chất lượng đều có cùng một nguồn gốc. chương trình chất lượng và phương pháp cải tiến quy trình liên tục đều mong muốn đạt được các mục tiêu như giảm lỗi và khiếm khuyết, giúp các quy trình hiệu quả hơn, cải thiện sự hài lòng của khách hàng và tăng lợi nhuận. Nhưng các chương trình chất lượng tập trung vào việc đạt được một mục tiêu cụ thể. Chương trình sẽ liên tục hoạt động và hướng tới một mục tiêu hoặc khi đạt được mục tiêu thì nó sẽ bắt đầu lại với mục tiêu mới
Six Sigma luôn hướng tới cải tiến chất lượng liên tục nhằm tối ưu hóa hiệu suất của một tổ chức từ trong ra ngoài. Six Sigma, cho phép tổ chức thực hiện những cải tiến nhỏ và sâu rộng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả và chi phí. Six Sigma hướng tới các mục tiêu riêng lẻ liên quan đến từng dự án, tạo ra các biện pháp bảo vệ và chiến thuật để ngay cả sau khi dự án được hoàn thành, thì biện pháp kiểm soát được đưa ra để đảm bảo tiến trình vẫn được suy trì và không thể trở lại con đường cũ.
Six Sigma áp dụng các số liệu thống kê để xác định, đo lường, phân tích, xác minh và kiểm soát các quy trình. Trên thực tế, các nhóm Six Sigma thường sử dụng các phương pháp được biết đến như DMAIC hoặc DMADV để thực hiện các cải tiến và phát triển cho các quy trình. DMAIC là viết tắt của Xác định, Đo lường, Phân tích, Cải thiện và Kiểm soát. Đây là năm giai đoạn của một dự án Six Sigma để cải thiện một quy trình đã tồn tại. Khi phát triển một quy trình mới, các nhóm sử dụng DMADV, viết tắt của Xác định, Đo lường, Phân tích, Thiết kế và Xác minh.
Kiểm soát quá trình bằng thống kê, là xương sống của phương pháp Six Sigma, được phát triển trên đường cong thông thường của Carl Friedrich Gauss trong thế kỷ 19. Nó là mô hình được sử dụng rộng rãi nhất và các mô hình khác cũng được phát triển từ đường cong thông thường này
Vào đầu thế kỷ 20, kiểm soát quá trình bằng thống kê đã nhận được một sự thúc đẩy lớn khác nhờ những đóng góp từ một kỹ sư và học giả tên Walter Shewhart. Đóng góp của Shewhart cho chất lượng là rất nhiều, trong đó có hai đóng góp lớn:
Đầu tiên, Shewhart là người đầu tiên đưa ra mối liên quan chặt chẽ giữa cấp độ six sigma (sigma level) và chất lượng và ông cũng đã định nghĩa một quá trình cần điều chỉnh hoặc sửa chữa là một quá trình đang thực hiện ở mức ba sigma. Do lỗi và chi phí tăng theo cấp số nhân khi mức độ sigma giảm (Six sigma…)
Thứ hai, Shewhart được coi là cha đẻ của biểu đồ kiểm soát. Biểu đồ kiểm soát nó là một thành phần quan trọng của kiểm soát quy trình bằng thống kê cho phép các tổ chức duy trì hiệu suất quy trình được cải tiến sau khi áp dụng Six Sigma.
Trong khoảng thời gian đó, W. Edwards Deming đang làm việc cho Bộ Nông nghiệp của Hoa Kỳ. Ông đã hẹn gặp Shewhart để nói chuyện. Và ông đã đưa các khái niệm thống kê của Shewhart đến Cục điều tra dân số Hoa Kỳ và ứng dụng phương pháp Kiểm soát quá trình thống kê của Walter A. Shewhart vào tính toán và quản lý tiến trình công việc.
Một trong những ý tưởng của Deming, được gọi là chu trình PDCA ((Lập kế hoạch – Thực hiện – Kiểm tra – hành động). Sự cải tiến xuất hiện khi bạn nhận ra cần phải thay đổi và lập kế hoạch để tạo ra sự cải tiến. Tiếp theo, bạn làm một cái gì đó bằng cách thử nghiệm ý tưởng của bạn. Sử dụng kết quả của thử nghiệm, bạn kiểm tra hoặc xác minh rằng các cải tiến của bạn có thể áp dụng được. Sau đó, bạn hành động, đưa các cải tiến của bạn đến một môi trường sản xuất hoặc quy mô bên ngoài môi trường thử nghiệm. Thực tế là PDCA là một chu trình không bao giờ kết thúc, luôn luôn có những cải tiến được thực hiện. Và đây là một nguyên lý cốt lõi của Six Sigma.
Sau Thế chiến II, Deming đã làm việc tại Nhật Bản. ở đây ông đã thuyết phục các nhà thống kê và các kỹ sư rằng kiểm soát quá trình bằng thống kê cần thiết trong việc thúc đẩy hiệu quả kinh tế và sản xuất để khắc phục thiệt hại từ chiến tranh. Cuối cùng, Deming trở thành một giáo viên và nhà tư vấn có giá trị cho các công ty sản xuất tại Nhật Bản, đưa ra những ý tưởng và khái niệm sớm trở thành Hệ thống sản xuất Toyota, hay Lean Six Sigma.
Sau thế chiến thứ II, Việc cải thiện hiệu suất và hiệu quả trở thành mục tiêu quan trọng của nền kinh tế nhật bản trong những năm 1940 và 50. Các nhà lãnh đạo Toyota đã áp dụng thống kê và phương pháp chất lượng để tạo ra một hệ thống mà họ cảm thấy sẽ tăng sản lượng và cho phép giảm chi phí sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng. Toyota đã đưa vào quy trình các máy móc tự động và các công cụ hiệu quả như Just-in-time, Jidoka và nó được xem là trụ cột của hệ thống sản xuất Toyota.
Jidoka là một nguyên tắc tạo ra sự kiểm soát các khiếm khuyết bên trong một quy trình. Thay vì xác định lỗi ở cuối dây chuyền sản xuất và cố gắng theo dõi lỗi. Thì Jidoka yêu cầu dừng quá trình ngay khi phát hiện lỗi để cải thiện hoặc khắc phục sự cố có thể xảy ra ngay lập tức.
Để Jidoka hoạt động tốt, máy móc thường được trang bị một bộ phận phán đoán đúng-sai, tốt-xấu đã được cài đặt sẵn trong máy móc. Các máy cũng được trang bị một thông báo để tương tác với con người trong quá trình khi có một dấu hiệu bất thường nào.
Nếu có thể có được vật cần thiết, vào đúng lúc cần thiết, với số lượng vừa đủ, thì có thể xoá bỏ đi được sự lãng phí, sự không cần thiết và sự bất hợp lí đồng thời giúp làm tăng hiệu quả sản xuất. Người đầu tiên đưa ra ý tưởng này, chính là ông Toyota Kinichiro, người sáng lập ra công ty ô tô Toyota. Sau này người ta đã triển khai ý tưởng đó và hình thành một hệ thống sản xuất.
Các nguyên tắc thúc đẩy hệ thống của Toyota và nền tảng của Lean hoặc Lean Six Sigma:
Xác định giá trị khách hàng
Xác định nhu cầu và mong muốn của khách hàng
Xác định các lãng phí trong quy trình
Tạo ra một quy trình liên tục
Tiếp tục làm việc để giảm số bước và thời gian để đạt được sự hài lòng của khách hàng
Lean rất quan tâm đến việc loại bỏ lãng phí từ quy trình. Lãng phí làm tăng chi phí và thời gian cho một quá trình, làm giảm sự hài lòng của khách hàng
Mặc dù cơ bản Six Sigma đã xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nhưng mãi đến giữa những năm 1980, những khái niệm này mới thực sự thành công trên quy mô lớn ở Hoa Kỳ. Nhiều thập kỷ sau khi Toyota phát triển hệ thống của mình, các kỹ sư của Motorola bắt đầu đặt câu hỏi về hiệu quả của các chương trình quản lý chất lượng của họ. Những câu hỏi đó xuất hiện đầu tiên sau khi một công ty Nhật Bản tiếp quản một nhà máy sản xuất tivi Motorola.
Bob Galvin, CEO của Motorola, đã đưa ra một thử thách cho đội của mình. Anh muốn thấy sự cải thiện về chất lượng và sản xuất. Và các kỹ sư của Motorola đã bắt đầu nghiên cứu về vấn đề này.
Trong suốt hai thập kỷ tiếp theo, Motorola đã làm việc để hoàn thiện phương pháp Six Sigma của mình, nhìn thấy kết quả tích cực trên đường đi. Ngoài các công cụ thống kê, nhóm đã tạo ra một quy trình từng bước mà theo đó bất kỳ nhóm nào – trong hầu hết mọi ngành có thể thực hiện và cải tiến. Lần đầu tiên, kiểm soát quy trình bằng thống kê này đã được đưa ra khỏi môi trường sản xuất mà áp dụng trên quy mô lớn cho toàn công ty. Motorola đã áp dụng phương pháp này cho dịch vụ khách hàng, kỹ thuật và hỗ trợ kỹ thuật. Nó đã sử dụng quy trình để tạo ra một môi trường hợp tác giữa các bên liên quan trong và ngoài tổ chức. Nó đã rất thành công. Theo Motorola, công ty đã tiết kiệm được hơn 16 tỷ đô la nhờ kết quả của các cải tiến quy trình liên tục trong vòng 12 năm.
Motorola đã đạt nhiều thành quả không chỉ là cải thiện các hệ thống và sản phẩm của riêng mình, Galvin chỉ đạo nhóm của mình chia sẻ Six Sigma với thế giới. Motorola và nhóm của họ đã thành công trong việc xuất bản các bài báo và sách về phương pháp Six Sigma và thực hiện các nỗ lực để đào tạo những người khác. Bằng cách này, họ đã tạo ra một phương pháp dựa trên số liệu thống kê có thể được dạy và thực hiện trong bất kỳ tổ chức hoặc ngành nào.