Suy hô hấp
Co thắt thanh khí phế quản
Tăng huyết áp và mạch nhanh
Suy hô hấp:
+ Do rút ống nội khí quản quá sớm khi bệnh nhân chưa thoát mê, chưa hết tác dụng của thuốc giãn cơ, tụt lưỡi ở bệnh nhân béo phệ, mập, tràn dịch, máu màng phổi sau phẫu thuật lồng ngực do hệ thống hút không hiệu quả, tồn dư của thuốc họ morphine, thương tổn cơ hoành không phát hiện sau phẫu thuật bụng cao, phù thanh môn sau gây mê toàn thân dưới đặt nội khí quản kéo dài.
+ Đề phòng và xử trí: Chỉ rút ống nội khí quản khi đủ điều kiện. Cho bệnh nhân thở oxy qua mask sau khi rút ống nội khí quản, bóp bóng hoặc đặt lại nội khí quản nếu bệnh nhân không tự thở đuợc.
Co thắt thanh khí phế quản:
+ Thường do rút nội khí quản quá muộn, gây kích thích đường hô hấp, nhất là trên các bệnh nhân hen, dị vật đường hô hấp (dịch tiết, máu) nhất là sau phẫu thuật vùng hầu họng (cắt amydale, phẫu thuật sức môi, hàm ếch, phẫu thuật vùng thanh-khí quản). Đặc biệt hay gặp ở trẻ em khi kích thích nhiều vùng hầu họng trước khi rút ống nội khí quản.
+ Dự phòng và xử trí:
*Rút nội khí quản đúng lúc, hút sạch hầu họng trước khi rút, có thể cho lidocaine liều 1-1,5mg/kg tiêm tĩnh mạch để hạn chế phản xạ này.
*Đối với co thắt thanh quản không hoàn toàn thì có thể cho bệnh nhân thở oxy áp lực dương hoặc bóp bóng qua mask. Nếu co thắt hoàn toàn thì có thể cho thêm một liều nhỏ thuốc giãn cơ ngắn và hô hấp nhân tạo cho đến khi hết tác dụng của thuốc giãn cơ.
Tăng huyết áp và mạch nhanh:
+ Đây là biến chứng thường gặp khi thoát mê, có thể gây nguy hiểm cho các bệnh nhân có tiền sử tăng huyết áp, bệnh lý mạch vành.
+ Đề phòng: Cho lidocaine 60mg qua nội khí quản hoặc 1mg/kg tiêm tĩnh mạch trước khi rút vài phút.
Suy ngẫm: Một bệnh nhân sau khi kết thúc quá trình gây mê vẫn có thể gặp các biến chứng sau gây mê. Là một bác sĩ gây mê thì chúng ta cũng cần phải nắm rõ kiến thức về các biến chứng mà bệnh nhân có thể gặp phải sau khi gây mê. Từ đó đánh giá được tình trạng bệnh nhân và đưa ra hướng xử trí phù hợp.