Hô hấp:
- Co thắt phế quản:
+Gây mê sâu bằng thuốc mê hô hấp hoặc tĩnh mạch.
+Tăng nồng độ O2 khí thở vào.
+Sử dụng các thuốc giãn phế quản như Salbutamol, có thể sử dụng thêm adrenalin, corticoid tuỳ từng tình trạng bệnh nhân.
máu và sử dụng các thuốc vận mạch khi cần thiết.
phổi và điều trị kháng sinh kết hợp corticoid liều cao.
Tim mạch:
-Hạ huyết áp, truỵ tim mạch:
+Cần bồi phụ đầy đủ thể tích tuần hoàn bị thiếu trước mổ.
+Chọn các thuốc gây mê ít gây tụt huyết áp cho các truờng hợp sốc, giảm thể tích tuần hoàn.
+Đặt bệnh nhân ở tư thế đầu thấp, hồi phục thể tích tuần hoàn bằng truyền dịch, truyền
Tiêu hoá:
-Nôn, buồn nôn:
+Đề phòng là chính, nhất là các đối tượng có nguy cơ cao. Tất cả các bệnh nhân mổ cấp cứu, đặc biệt trong mổ đẻ, cho dùng các thuốc kháng tiết đường tiêm hoặc uống, làm giảm thể tích dịch vị bằng metoclopramid (Primperan).
+ Bệnh nhân có nguy cơ trào ngược nếu phẫu thuật cho phép thì nên chuyển sang gây tê vùng, hoặc lùi thời gian cuộc mổù lại. Nếu phải gây mê toàn thân để mổ thì nên đặt xông dạ dày để hút hết dịch ứ đọng và rút ra trước khi khởi mê. Nên áp dụng phương pháp khởi mê nhanh và phải áp dụng thủ thuật Sellick trong suốt quá trình khởi mê cho tới khi bơm được bóng chèn của ống nội khí quản.
+ Khi có trào ngược mà đường thở chưa được bảo vệ bằng ống nội khí quản thì phải đặt bệnh nhân ở tư thế đầu thấp, quay nghiêng đầu và hút sạch đường hô hấp trên rồi tiến hành đặt nội khí quản. Phải hút sạch ống nội khí quản trước khi tiến hành thông khí để tránh đẩy các dịch hít vào sâu hơn trong đường thở. Soi phế quản để lấy dị vật và rửa phế quản nếu cần thiết. Phải xét nghiệm khí máu, chụp phim
Suy ngẫm: Việc xử trí các biến chứng có thể xảy ra trong khi gây mê là một vấn đề cần được giải quyết nhanh, chính xác để đảm bảo tính mạng cho bệnh nhân. Vì thế, một bác sĩ gây mê cần trang bị cho mình một kĩ năng xử trí nhanh nhẹn và chính xác trong các tình huống có thể gặp phải.