LỚP 10
1 . Thần thoại
Là một trong những thể loại truyện dân gian. Thần thoại kể về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật văn hóa; qua đó, phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc của thế giới và đời sống con người. So với các thể loại truyện dân gian khác, thần thoại có những đặc điểm riêng thể hiện qua các yếu tố không gian, thời gian, cốt truyện, nhân vật,...
2. Không gian trong thần thoại Là không gian vũ trụ đang trong quá trình tạo lập, không xác định nơi chốn cụ thể. Thời gian trong thần thoại là thời gian cổ sơ, không xác định và mang tính vĩnh hằng.
5. Tính chỉnh thể của tác phẩm là sự thống nhất , toàn vẹn của tác phẩm. Ở đó, mọi bộ phận, yếu tố, chi tiết,... đều có ý nghĩa và được gắn kết với nhau một cách, chặt chẽ, nhất quán nhằm thể hiện tập trung, nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Thời gian sử thi thuộc về quá khứ “một đi không trở lại” của cộng đồng”, . Thường gắn với xã hội cổ đại hoặc xã hội phong kiến.
Không gian sử thi thường mở ra theo những cuộc phiêu lưu gắn với các kì tích của người anh hùng.
Nhân vật anh hùng sử thi là hiện thân cho cộng đồng, thường hội tụ những đặc điểm nổi bật như : a. Sở hữu sức mạnh, tài năng, lòng dũng cảm phi thường; b. Luôn sẵn sàng đối mặt với thách thức, hiểm nguy; c. Lập nên những kì tích, uy danh lẫy lừng.
Trong văn bản sử thi, lời của người kế chuyện thường ở ngôi thứ ba. Thể hiện thái độ tôn vinh, ngợi ca người anh hùng có công với cộng đồng. Lời của nhân vật người anh hùng thể hiện hành động, tính cách anh hùng, thường là lời đối thoại (với thần linh hoặc với nhân vật khác). Cả lời kể và lời thoại trong sử thi đều giàu chất thơ.
11. Thái độ, cảm xúc của người kể chuyện
Người kể chuyện sử thi thể hiện sự trang nghiêm, thành kính đối với sự kiện, nhân vật. Sự trang nghiêm, thành kính bộc lộ cụ thể qua cách sử dụng ngôn từ, giọng điệu, hình ảnh trong văn bản sử thi.
Trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm văn học gọi là cảm hứng chủ đạo. Cảm hứng chủ đạo của sử thi gắn liền với tư tưởng chống thần quyền trong cuộc đấu tranh chinh phục tự nhiên và chống các thế lực đe dọa sự sống của cộng đồng. Lập trường của người kế đứng hẳn về phía nhân vật anh hùng để ngợi ca sức mạnh của cộng đồng mà sử thi tôn vinh.
Một văn bản luôn gắn liền với một bối cảnh lịch sử - văn hóa nhất định. Sử thi ra đời chủ yếu trong giai đoạn xung đột giữa con người với thần quyền, giữa các cộng đồng với nhau, giữa tinh thần tự do của con người và các trật tự của luân lí xã hội. Những vấn đề về thể chế, tập tục, nghi lễ trong kiến tạo văn hóa của các cộng đồng xưa được thể hiện khá sâu sắc trong sử thi.
14. Câu chuyện là sự việc, chuỗi sự việc xảy ra trong đời sống, liên quan đến một hoặc một số người nào đó. Câu chuyện thường có khởi đầu, có diễn biến và kết thúc.
15. Cốt truyện là câu chuyện được tổ chức một cách nghệ thuật với biến cố, tình huống, xung đột làm cho câu chuyện trở nên có nghĩa.
16. Thông điệp của tác phẩm văn học là điều mà tác giả muốn gửi đến người đọc qua hình tượng nghệ thuật. Đó là ý tưởng quan trọng nhất, là bài học, cách ứng xử mà văn bản văn học muốn truyền đến người đọc.
17. Tư tuởng của tác phẩm văn học là nhận thức, quan niệm, thái độ, cách lí giải về các vấn đề đời sống và khát vọng của tác giả được thể hiện trong tác phẩm. Tư tưởng của tác phẩm được thể hiện sinh động qua nhiều yếu tố: đề tài chủ đề, thế giới hình tượng.
18. Đặc điểm, tính cách nhân vật là những nét riêng về ngoại hình, hành động, tính cách, tâm lí, ngôn ngữ,... của nhân vật, giúp phân biệt với nhân vật khác. Khi đọc truyện, người đọc có thể nhận biết đặc điểm, tính cách tư tưởng, tình cảm của một nhân vật qua lối của người kể chuyện, qua hành động, lời nói ý nghĩ của nhân vật hoặc qua nhận xét, đánh giá của nhân vật khác về nó
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 10, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 59")
19. Người kể chuyện: một vai được tác giả tạo ra, đảm nhiệm việc kể lại câu chuyện trong văn bản truyện. Người kể chuyện có thể là nhân vật hoặc không, có thể dùng các điểm nhìn khác nhau.
20. Điểm nhìn là vì trị của người kể chuyện trong tương quan với câu chuyện. Tuy trường hợp, câu chuyện có thể được kể theo điểm nhìn từ ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất, điểm nhìn của người kể chuyện hoặc điểm nhìn của nhân vật (xưng "tôi" hay không xưng "tôi"), điểm nhìn cố định hay dịch chuyển, thay đổi,...
LỚP 11
THIẾU BÀI 3, BÀI 7 LỚP 11, bổ sung và điều chỉnh số thứ tự các mục từ mục 20 trở đi
1 .Truyện ngắn
Truyện ngắn là thể loại tự sự hư cấu có dung lượng nhỏ, thường phù hợp để đọc hết trong một lần. Với quy mô hạn chế, số lượng nhân vật và sự kiện ít, truyện ngắn chỉ tập trong miêu tả một khía cạnh hoặc trạng thái cụ thể của đời sống xã hội.
Cốt truyện của truyện ngắn hiện đại thường đơn giản, cô đúc, tập trung xoay quanh một tình thương. Trong đó, các sự kiện trong câu chuyện được sắp xếp theo hướng tập trung vào một vài biến cố chính, dồn nén mâu thuẫn trong một khoảng thơi gian ngắn.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 11, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 5")
Điểm nhìn ngôi thứ ba toàn tri: Tầm hiểu biết của người kể chuyện bao trùm toàn bộ thế giới nhân vật, không bị giới hạn trong cái nhìn của nhân vật nào thấu suốt tất cả suy nghĩ và cảm xúc của các nhân vật, tất cả mọi thời điểm, địa điểm và sự kiện.
Điểm nhìn ngôi thứ ba hạn tri :Tầm hiểu biết của người kể chuyện chỉ giới hạn hạng trong cái nhìn của một nhân vật trung tâm, chỉ thấu suốt suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật đô và các sự kiện mà nhân vật đó biết.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 11, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 5
Thay đổi điểm nhìn: Trong nhiều tác phẩm truyện hiện đại, thường có sự di chuyến điểm nhìn kể chuyện, có thể từ ngôi thứ nhất sang ngôi thứ ba, từ ngôi thứ ba hạn tri sang toàn tri, hoặc giữa nhiều ngôi thứ nhất khác nhau. Thủ pháp này có nhiều tác dụng trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả: dẫn dắt độc giả vào thế giới tình thân của nhân vật quan sát, thể hiện sự việc, con người từ nhiều góc nhìn,...
Nhân vật trong truyện ngắn. Truyện ngắn hiện đại thương chỉ có 1-2 nhân vật chính – tức nhân vật hiện lên như một chủ thể độc lập, giữ vai trò chủ đạo trong việc thể hiện chủ đề và tư tưởng của tác phẩm - được khắc hoạ qua ngoại hình, hành động, đối thoại, độc thoại nội tâm và qua đánh giá của các nhân vật khác cũng như của người kể chuyện
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 11, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 6")
LỚP 12
BÀI 2: PHONG CÁCH SÁNG TÁC LÃNG MẠN, HIỆN THỰC
Phong cách lãng mạn có đặc điểm là đề cao cảm xúc và trí tưởng tượng của con người, có khuynh hướng phá vỡ các quy phạm nhằm giải phóng con người cả nhân bộc lộ cá tính một cách tự do nhất
Ở Việt Nam, phong cách lãng mạn phát triển thành một trào lưu lớn vào khoảng những năm 1930 - 1945 với phong trào Thơ mới (Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bình), văn xuôi của Tự lực văn đoàn (Khải Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam.), sáng tác của Nguyễn Tuân và nhiều nhà văn khác trước năm 1945. Trào lưu này gắn với sự bứt phá khỏi những khuôn khổ thì luật và ngôn ngữ của thơ văn trung đại, giải phóng cái tới thời hiện đại và cả tính sáng tạo của nhà văn.
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 12, tập 1, Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 9-10)
Phong cách hiện thực là phong cách nghệ thuật chú trọng việc khắc hoạ chính xác, tỉ mỉ những bức tranh chân thực về cuộc sống và môi trường xã hội với cảm hứng phê phán, bóc trần những mặt tiêu cực của thực tại. Đề tài gắn với cuộc sống hằng ngày, nhân vật thường điển hình cho một hoàn cảnh, một tính cách, một số phận trong xã hội.
Ở Việt Nam, phong cách hiện thực cũng phát triển thành một trào lưu lớn song song với trào lưu lãng mạn vào khoảng những năm 1930 – 1945 với các tác giả Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao,... Trào lưu này gắn với những bức tranh xã hội chân thực về đời sống khốn cùng của nông dân, thị dân nghèo và tiểu tư sản trí thức, với cảm quan phê phán hiện thực và tinh thần phản kháng tiềm tàng.
Tính chỉnh thể của tác phẩm: Mỗi tác phẩm văn học là một hệ thống bao gồm hàng loạt yếu tố thuộc những bình diện khác nhau (đề tài, chủ đề, tư tưởng, kết cấu, ngôn ngữ, chi tiết, sự kiện, nhân vật,...). Ở những tác phẩm có giá trị, sự kết hợp và tác động lẫn nhau giữa các yếu tố này làm cho tác phẩm trở thành một chỉnh thể nghệ thuật mang tính thống nhất giữa nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 12, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 29")
Sự kiện trong tác phẩm truyện là những sự việc, biến cố quan trọng dẫn đến sự thay đổi của nhân vật và sự phát triển của cốt truyện. Sự kiện vừa phản ảnh các mối quan hệ, xung đột xã hội vừa giúp bộc lộ tính cách và số phận nhân vật.
Các giá trị của tác phẩm văn học: Văn học có ba giá trị chính là nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ.
Giá trị nhận thức thể hiện ở việc tác phẩm văn học mang đến cho bạn đọc những hiểu biết về tự nhiên, xã hội và về chính bản thân mình (tự nhận thức).
Giá trị giáo dục thể hiện ở khả năng hình thành nơi người đọc những phẩm chất đạo đức, có thể thay đổi thế giới quan, nhân sinh quan.
Giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học thể hiện ở khả năng thoả mãn nhu cầu về cái đẹp, phát triển năng lực, thị hiếu về cái đẹp cho người đọc.
Các giá trị trên không tách rời mà gắn bó chặt chẽ với nhau và đều được thể hiện thông qua hình tượng và ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm văn học.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 12, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022, tr. 30")
BÀI 3: TRUYỆN - TRUYỀN KÌ
2.Truyện truyền kì
Truyện truyền kì là một thể loại văn xuôi tự sự cỡ nhỏ thời trung đại, có nguồn gốc từ Trung Quốc, thường phản ánh hiện thực bằng yếu tố kì ảo. Nhiều truyện gần với truyện dân gian.
Ở Việt Nam, truyện truyền kì được viết bằng chữ Hán, phát triển mạnh ở thế kỉ XVI-XVII, tiêu biểu là Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
Yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì, truyện dân gian
Yếu tố kì ảo là những yếu tố kì lạ, hoang đường thể hiện qua sự kiện, cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian, thủ pháp nghệ thuật,... của truyện kể
Trong truyện truyền kì, thế giới con người giao thoa và kết nối với thế giới của thánh thần, ma, quỷ. Tuy nhiên, đằng sau những tình tiết kì ảo, phi hiện thực, người đọc có thể tìm thấy những vấn đề cốt lõi của hiện thực cũng như những quan niệm và thái độ của tác giả đối với đời sống đương thời.
Trong truyện dân gian, yếu tố kì ảo được sử dụng nhằm thể hiện quan niệm dân gian về thế giới siêu nhiên hoặc niềm tin vào công lí. Chẳng hạn truyện cổ tích thần kì dùng yếu tố này để thể hiện sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên hoặc hiện thực hoá ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp, niềm tin “ở hiền gặp lành".
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 12, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 67")
Quan niệm, mục đích, cách thức sử dụng yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì khác với truyện dân gian. Yếu tố kì ảo trong truyện dân gian gắn với niềm tin của tác giả dân gian về sự hiện hữu và vai trò của các thế lực siêu nhiên trong đời sống của con người. Đây cũng là phương tiện giúp người xưa nuôi dưỡng niềm tin và ước mơ về một thế giới tốt đẹp. Thế giới trong truyện truyền kì là một thế giới tưởng tượng. Yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì chủ yếu được sử dụng như là phương tiện nghệ thuật, giúp nhà văn dựng nên trong truyện kể một thế giới kì lạ hoang đường, qua đó đề cập đến những vấn đề đáng quan ngại của xã hội đương thời.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 12, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 67,68")
Trong truyện hiện đại, khi cần, các nhà văn cũng thường sử dụng yếu tố kì ảo để thực hiện ý đồ nghệ thuật của mình. Các tác phẩm của Nguyễn Tuân như Trên đỉnh non Tân, Xác ngọc lam, Chùa Đàn,... là những ví dụ tiêu biểu.
Văn tế: loại văn đọc khí cúng tế người chết. Trong văn học trung đại, đây là thế văn kết hợp nhiều loại yếu tố: tự sự, nghị luận, trữ tình,... Một bài văn tế thường có các phần: Lung khỏi (cảm tưởng khái quát về người quá cố); Thích thực (hồi tưởng công đức của người quá cố); Ai văn (than tiếc người chết); Kết (nêu cảm nghĩ và mới linh hồn người quá cố về hưởng đồ tế lễ). Về thể thức, văn tế được viết bằng nhiều thể loại khác nhau, nhưng điển hình nhất là viết bằng thể phú độc vận (một vần) như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế Phan Chu Trinh của Phan Bội Châu,... Bài văn tế thường có những lời biểu cảm trực tiếp của người đứng tế như: “Hôi ôi!", "Ôi!", "Ôi thôi thôi!", "Đau đớn thay!",..
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 12, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 68")
BÀI 7: TIỂU THUYẾT
3. Tiểu thuyết
Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định.
+ Tiểu thuyết có nhiều dạng thức kết cấu tùy theo yêu cầu của đề tài, chủ đề hoặc theo sở trường của người viết. Thậm chí người ta còn cho rằng, về nguyên tắc, tiểu thuyết không có một hình thức thể loại hoàn kết, bởi vì nó là “sử thi của thời đại chúng ta”, tức là sử thi của cái hiện tại, cái đang hàng ngày hàng giờ đổi thay.
+ Tuy thường gặp những kết cấu chương hồi, kết cấu tâm lý, kết cấu luận đề, kết cấu đơn tuyến, kết cấu đa tuyến v.v. tiểu thuyết vẫn không chịu được những chế định chặt chẽ, nó không có quy phạm cố định và người viết thậm chí có thể phá vỡ những khuôn mẫu sẵn có để vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các hình thức kết cấu khác nhau. Kết cấu cho phép tạo nên một diện mạo chung nhất về tiểu loại: tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết đa thanh v.v.
Có hai cách để phân biệt truyện ngắn hay tiểu thuyết:
+ Căn cứ theo số trang mà truyện có thể in ra.
+ Căn cứ theo cách viết của cả truyện: Tiểu thuyết hay truyện dài thì cứ triền miên theo thời gian, đôi khi có quãng hồi ức trở ngược lại. Truyện ngắn thì gây cho người đọc một cái nút, một khúc mắc cần giải đáp. Cái nút đó càng ngày càng thắt lại đến đỉnh điểm thì đột ngột cởi tung ra, khiến người đọc hả hê, hết băn khoăn.