Theo mình : Là người từng trải qua không ít sóng gió để đạt được mục tiêu của mình, mình cảm nhận thể loại kịch như một tấm gương phản chiếu sâu sắc những cung bậc cảm xúc và biến động của cuộc đời. Kịch không chỉ đơn thuần là câu chuyện được kể trên sân khấu, mà còn là nơi mình thấy được chính mình trong từng nhân vật, từng tình huống. Mỗi vở kịch, với những mâu thuẫn, xung đột, và cao trào, đều như một bức tranh sống động về cuộc sống đầy thử thách mà mình đã từng đối diện.
Kịch giúp mình hiểu rằng, mỗi người đều có những vai diễn riêng trong cuộc đời, và mỗi thử thách đều là một phần trong hành trình phát triển bản thân. Những giây phút cao trào trong kịch, những cú lội ngược dòng của nhân vật chính, đều gợi nhắc mình về những lần phải đấu tranh, vượt qua chính mình để không ngừng tiến lên. Kịch dạy mình rằng, dù sân khấu có khép lại, cuộc sống vẫn tiếp diễn, và chúng ta cần tiếp tục diễn trọn vai của mình với tất cả niềm đam mê và nỗ lực.
1. Chèo
Chèo cổ (chèo săn định) là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, kết hợp hài hoà nhiều chất liêu: dân ca, múa dân gian và các loại hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ. Chèo được xem là một hình thức kế chuyên bằng sân khấu, lấy sân khấu sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng (không có người kề chuyện như trong truyện). Cũng như kịch nói chung, kịch bản chèo tập trung thế hiện hành động, dẫn dắt xung đột qua ngôn ngữ của nhân vật.
Cần phân biệt giữa kịch bản chèo và sân khấu chèo: Kịch bản chèo là văn bản văn học, được tiếp nhận thông qua hình thức đọc, bao gồm lời thoại của nhân vật và một số chỉ dẫn sân khấu căn bản (ví dụ: "hát sáp", "nói lệch",...). Sân khấu chèo là sự hiện thực hoá kịch bản chèo thông qua hoạt động trình diễn, được tiếp nhận bằng hình thức xem và nghe.
Đặc điểm của chèo có thể hiện qua nhiều yếu tố để tài, tích truyện, nhân vật, cấu trúc, lời thoại,...
Đề tài: Chèo cổ thường xoay quanh vấn đề giáo dục cách sống, cách ứng xử giữa người với người theo quan điểm đạo lí dân gian hoặc theo tư tưởng Nho giáo.
Tích truyện là chất liệu xây dựng nên cốt truyện của chèo. Thường là các nhân vật hành động sự việc có sẵn trong kho tàng truyện cổ dân gian hoặc trong dã sử được khai thác và tổ chức lai theo nguyên tác kịch hay xung đột. Từ các tích truyện này, các tác giả kịch bản thường là giới nho sĩ viết thành kịch bán chèo để truyền ba trình ứng tác, biểu diễn, nhiều chủ đề truyền thống bị làm mờ đi, nhường chỗ cho những khát vọng nhân bản hơn, vượt ra ngoài giáo lí Nho học truyền thống.
Nhân vật: Các loại hình nhân vật phổ biến của chèo bao gồm kép, đào, hẻ, mụ, lào, Kép (nam chính) thường là các sĩ tử chân chính, hiếu học, đào (nữ chính) bao gồm đào thương (những phụ nữ trung trình tiết liệt), đào lệch hay còn gọi là đào lằng (những phụ nữ nổi loạn, đi ngược lại quan điểm đạo đức phong kiến), đào pha (trung gian giữa hai loại vai đào thương và đào lệch); hể (nhân vật hài hước, gây cười), mu (nhân vật nữ lớn tuổi); lào (nhân vật nam lớn tuổi). Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ với tính cách không thay đổi.
Cấu trúc: Cũng như các loại hình sân khấu khác, cấu trúc của một vở chèo bao gồm nhiều màn và cảnh, mỗi màn và cảnh thường xảy ra trong một khung thời gian và không gian khác nhau. Mỗi cảnh đóng vai trò như một bộ phận kiến tạo nên các giai đoạn của cốt truyện: khai mở, thắt nút, đỉnh điểm, mở nút.
Lời thoại: Trong chèo không có lời người kể chuyện, chỉ có các lời thoại. Lời thoại đám nhiệm mọi vai trò: dẫn dắt xung đột, diễn tả hành động, khắc hoạ nhân vật, bối cảnh (không gian, thời gian), đồng thời gián tiếp thể hiện tình cảm của tác giả dân gian.
Lời thoại trong chèo có bao gồm lời thoại của nhân vật và tiếng đế. Lời thoại của nhân vật thường có các hình thức: đối thoại (lời các nhân vật nói với nhau), độc thoại (lôi nhân vật nói với chính mình), bàng thoại (lời nhân vật nói với khán giả). Tiếng để là lời của đại diện khán giả chen vào, đệm vào lòi của nhân vật dưới dạng câu hỏi hoặc bình luận ngắn, chủ yếu để kích thích nhân vật bộc lộ khi diễn.
Về hình thức, lời thoại của nhân vật trong chèo bao gồm lời nói, lời hát – nói (tức nói theo âm điệu) và lời hát (theo các làn điệu dân ca).
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 10, tập ,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 109-110")
2.Tuồng
Tuồng là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, kết hợp hài hoà điệu nói lối, các điệu hát của tuồng và một số chất liệu nghệ thuật dân gian khác. Tuồng thịnh hành vào thế kỉ XIX, vùng Nam Trung Bộ (tiêu biểu là Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng, Bình Định). Được xem là một hình thức kể chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phuơng tiên giao lưu với công chúng, kịch bản tuồng tập trung thể hiện hành động, dẫn dắt nội dung, phạm vì lưu điện, quy cách dân dụng, tưởng được phân thành hai loại chính trồng pho thưởng thủy) và tưởng đã
Tướng đỡ thiên về hài hước châm biếm, ngôn ngữ mộc mạc, bình dân, lối diễn tự do, ít khoa trương cách điệu, gần gũi với cuộc sống thương ngày và gần với kịch nói. Các vở tuồng đó tiêu biểu như Nghêu, 50, Ốc, Hến, Trung Đô Nhục Thang Ngdo...
Đặc điểm của tưởng đó thể hiện qua nhiêu yêu tốc để lái, tích truyện, nhân vật. olu trúc, lời thoại, phương thức hưu truyền....
Đề tài lấy từ đời sống thôn dã, hoặc tích truyện có săn, dưng thành những câu chuyện, tình huống hài hước, những nhân vật phản diện hiện thân cho những thói hư tật xấu của một số hạng người trong xã hội phong kiến tiểu nông. Tuống đó, do vậy, thiên về trào lộng, phê phán xã hội trên lập trường đạo đức của người bình dân, khác với tưởng pho thường lấy đề tài từ sách, truyện Trung Quốc với cảm hứng anh hong, đề cao lí tưởng trung quân theo lập trường Nho giáo,
Tích truyện: Các vở tuồng đô thường được xây dựng dựa trên một câu chuyện hay một tình huống, hành động, sự việc nào đó, thương có sẵn trong kho tàng truyện dân gian, gọi là “tích truyện". Từ tích truyện này, các tác giả kịch bản viết thành kịch bản tuông (dưới dạng truyền miệng). Khi trình diễn, nghệ nhân trong các gánh tuồng có thể cải biên ít nhiều cho phù hợp với điều kiện diễn xuất, đối tượng người xem.
Nhân vật khác với tuồng pho, các loại hình nhân vật phổ biến trong tưởng đồ gần gũi với chèo có, cũng bao gồm các vai: kép, đào, mụ, lào,... Nhân vật tiêu biểu cho các vai tuồng này thường mang tính ước lệ và tính cách không thay đổi, thể hiện chủ yếu qua lời thoại và hành động của mình. Khi xuất hiện lần đầu, các nhân vật chính thường có lời xưng danh (tự giới thiệu danh tính, nghề nghiệp, vị trí xã hội,...). Tính cách, đặc điểm của nhân vật trong tuông, một phần được biểu đạt qua cách hoá trang, nhất là qua các nét về và màu sắc trên khuôn mặt diễn viên.
Lợi thoại trong tuồng cũng có vai trò, đặc điểm như lôi thoại trong chèo đã nói ở phần trước. Lời thoại của nhân vật tuồng, chủ yếu là đối thoại có xen độc thoại hay bàng thoại, dưới hình thức nói, ngâm hoặc hát và chủ yếu là vân vân.
Phương thức lưu truyền chủ yếu là truyền miệng. Tuông đồ thương không được ghi chép thành quyền như tuồng pho. Do vậy, mỗi gánh hát tuồng có thể lưu giữ một vốn kịch bản - vở diễn riêng. Hơn nữa, cùng một tích tuồng, nghệ nhân trong các gánh tuồng có thể tạo dựng các lớp tuồng với các mảng miếng, những điểm nhấn và độ co duỗi của vở diễn theo cách riêng của mình.
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 10, tập ,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 110-111)
3. Bi kịch
3.1. Bi kịch là thể loại kịch tập trung khai thác những xung đột gay gắt giữa những khát vọng cao đẹp của con người với tình thế bị đát của thực tại, dẫn tới sự thảm bại hay cái chết của nhân vật.
3.2. Hành động trong bi kịch là hệ thống hành động của các nhân vật được tổ chức và kết nối lại, tạo nên sự phát triển của cốt truyện bị kịch. Hành động của các nhân vật bị kịch, cũng như hành động của nhân vật kịch nói chung, thường được phân thành hai dạng chính hành động bên ngoài (lời nói, cư xử, hoạt động) và hành động bên trong (sự chuyển biến nội tâm, độc thoại nội tâm).
3.3. Cốt truyện bi kịch là tiến trình của các sự việc, biến cố trong câu chuyện kịch được tổ chức tạo nên sự phát triển xung đột, cũng như sự phát triển hành động và tính cách các nhân vật. Đó thường là một chuỗi các sự kiện dẫn đến những tổn thất, đau thương trong cuộc đời nhân vật chính (từ đỉnh cao danh vọng, quyền uy, hanh phúc,... đến cái chết hoặc sự mất mát khủng khiếp của nhân vật)
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 11, tập ,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 110")
3.4. Xung đột bi kịch là nhân tố tổ chức tác phẩm kịch, thể hiện sự va chạm, đấu tranh, loại trừ giữa các thế lực đối lập: giữa các mặt khác nhau của cùng một tỉnh cách, giữa các tính cách nhân vật khác nhau, hoặc giữa tính cách nhân vật với hoàn cảnh. Xung đột bi kịch thương nảy sinh giữa cái cao cả với cái cao cả, giữa cái cao cả với cái thấp kém hoặc giữa khát vọng cao cả với số phận khắc nghiệt.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 11, tập ,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 110,111)
3.5. Nhân vật chính của bi kịch thường có bản chất tốt đẹp, có khát vọng vượt lên và thách thức số phận, nhưng cũng có những nhược điểm trong hành xử hoặc sai lầm trong đánh giá. Những nhược điểm, sai lầm đó sẽ buộc nhân vật phải trả giá rất đắt, thậm chỉ bằng cả cuộc đợi của mình và những gì mình trân trọng.
3.6. Hiệu ứng thanh lọc của bì kịch: Những chấn động cảm xúc mạnh mẽ mà bi kịch gây nên trong tâm hồn khán giả là cơ sở tạo nên hiệu ứng thanh lọc của thể loại này. Thoạt tiên, bị kịch khiến khán giả thương xót trước số phận bi đát của một con người vốn cao quý, tốt đẹp, sợ hãi trước cái chết, trước những mất mát khủng khiếp. Tuy nhiên, sâu xa hơn, bi kịch khiến khán giả nhận ra, thức tỉnh và đồng cảm trước những giá trị tốt đẹp, có ý nghĩa trong đời, đau đớn trước sự huỷ diệt những giá trị đó. Từ đây, họ có thể giải toả sự xót thương, nỗi sợ hãi thường tình, hướng tâm hồn.
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 11, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. ,111)
4.Hài kịch
4.1. Hài kịch là một thể loại kịch dùng tiếng cười phê phán thói hư tật xấu, suy đồi đạo đức, tệ nạn xã hội, tống tiền những gì không phù hợp với đời sống, từ đó nỗ lực thay đổi nhận thức của khán giả, hướng đến một nhân sinh quan tốt đẹp hơn. Nếu bi kịch gọi lên cảm xúc xót thương và sợ hãi trong khán giả thông qua sự mất mát hay cái chết của những nhân vật cao quý thì hài kịch dùng tiếng cười để phê phán những giá trị lỗi thời, khẳng định sự chiến thắng của những giá trị mới mẻ, tiến bộ. Đặc điểm của hài kịch thể hiện qua tình huống, xung đột, hành động, nhân vật, các sắc điệu của tiếng cười, thủ pháp trào phúng, ngôn ngữ hài kịch,..
4.2. Cốt truyện hài kịch thường là câu chuyện đời thường, dựa trên tình huống gây cười (hiểu lầm, nhầm lẫn, trùng hợp ngẫu nhiên,...) dẫn đến nghịch cảnh trớ trêu, bộc lộ bản chất, tính cách đáng chê cười của nhân vật, nhiều khi có kết cục dở khóc dở cười,... Câu chuyện thường bắt đầu bằng sự mất cân xứng, lệch chuẩn nào đó và kết thúc khi sự cân bằng được thiết lập lại, hợp đạo lí.
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 11, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. ,125)
4.3. Xung đột trong hài kịch thường phát sinh từ sự sai lệch với chuẩn mực đạo đức và thẩm mĩ mà cộng đồng công nhận, đòi hỏi lập lại sự hài hoà và hợp lí.
4.4. Hành động trong hài kịch là toàn bộ hoạt động của các nhân vật thông qua lời thoại, ngữ điệu, cử chỉ, biểu cảm, nhằm thể hiện thế giới nội tâm và kết nối sự kiện, làm nên sự phát triển của cốt truyện hài kịch. Hành động trong hài kịch thường gắn với tình huống hài kịch và góp phần thể hiện các thủ pháp trào phúng.
4.5. Nhân vật hài kịch có thể thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, là những người có tính cách, tâm lí, lối sống, đam mê, ứng xử trái với lẽ thường, tạo nên những tình huống, hành vi, lời lẽ nực cười.
4.6. Tiếng cười trào phúng có nhiều sắc thái trào lộng, hài hước, mỉa mai, châm biếm, đả kích, bì – hài tuỳ theo đối tượng trào phúng có đáng được thông cảm hay không.
4.7. Thủ pháp trào phúng: Hài kịch thường sử dụng các thủ pháp trào phúng như phóng đại, nghịch lí, nghịch dị', nghịch ngữ, tương phản, tăng cấp, nói mỉa, từ nhiều nghĩa, chơi chữ, tự lật tẩy (tự bóc trần),...
Ngôn ngữ và hiệu ứng "chữa trị" của hài kịch
4.8. Ngôn ngữ trong hài kịch gắn với ngôn ngữ đời sống và đậm tính gây cười. Là một trong những thể loại nghệ thuật có khả năng tác động và định hình ý thức cộng đồng, ngoài chức năng giải trí, làm hưng phấn tâm trạng, hài kịch còn giúp khán giả lạc quan và tỉnh táo nhận thức thực tế, bảo vệ mình trước cái tiêu cục, dấy lên mong muốn chữa trị những khiếm khuyết, bất cập trong đời sống xã hội và cá nhân.