Văn nghị luận
Văn nghị luận là loại văn bản chủ yếu sử dụng lí lẽ và bằng chứng nhằm thuyết phục nguời đọc, người nghe về một quan điểm, tư tưởng. Người viết nghị luận phải thể hiện được chính kiến , luận đề và các luận điểm nhất quán, lí lẽ và bằng chứng chặt chẽ, rõ ràng, thuyết phục, giúp người đọc, người nghe tán đồng, chia sẻ quan điểm, tư tưởng của mình. Sức mạnh của văn nghị luận là ở tính hệ thống của luận điểm, ở tính sắc bén, chặt chẽ của lập luận, ở bằng chứng xác thực, ở niêm tin vào chân lí, chính nghĩa, sự trung thực, chân thành trong tình cảm, cảm xúc của người viết, người nói.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 10, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 31")
Mục đích và quan điểm của người việt trong văn bản nghị luân
Mỗi văn bản được viết ra đều nhằm một mục đích nhất định. Mục đích của văn bản nghị luận là thuyết phục người đọc về ý kiến, tư tưởng của người viết trước một vấn đề, hiện tượng trong đời sống.
Quan điểm của người viết là cách người viết nhìn nhận, đánh giá vấn đề, hiện tượng cần bàn luận, thể hiện ý kiến khen, chê, đồng tình, phản đối trước vấn đề, hiện tượng ấy.
Yếu tố biểu cảm trong văn bản nghị luận
Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận biểu hiện qua những từ ngữ, hình ảnh, những câu văn có sức truyền cảm, truyền tải tình cảm, cảm xúc của người viết. Nhằm tăng sức thuyết phục, văn nghị luận cần sử dụng yếu tố biểu cảm để tác động vào tình cảm của người đọc. Yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận cần chân thực. đảm bảo sự mạch lạc, chặt chẽ của bài nghị luận.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 10, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 90")
Tính thuyết phục của lí lẽ, bằng chứng trong văn bản nghị luận
Để làm nên sức hấp dẫn, thuyết phục của văn bản nghị luận, cần có những lí lẽ bằng chứng thích hợp, chính xác, đầy đủ. Tính thuyết phục của lí lẽ thể hiện ở chổ soi chiếu vấn đề trên nhiều khía cạnh, có những cơ sở vững chắc (từ lí thuyết và thực tiễn) để làm điểm tựa cho lập luận. Lí lẽ cần được lập luận một cách chặt chẽ, đảm bảo đủ cơ sở và kết luận. Tính thuyết phục của bằng chứng thể hiện ở việc lựa chọn bằng chứng phù hợp, cụ thể, tiêu biểu, xác thực để làm sáng tỏ lì lẽ. Tĩnh thuyết phục của lí lẽ, bằng chứng còn thể hiện ở những cách biểu đạt độc đáo, ấn tượng, giàu tính hùng biện, nhằm tác động vào tư tưởng, tình cảm của người đọc.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 11, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 36,37")
Yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự
Các yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự được đưa vào văn bản nghị luận giúp người đọc hình dung về luận đề, bằng chứng trong văn bản. Yếu tố thuyết minh cung cấp tri thức về nguồn gốc, cấu tạo, vai trò, ý nghĩa,... của đối tượng cần bàn luận. Yếu tố miêu tả thể hiện các đặc điểm, tính chất nổi bật của con người, con vật, đồ vật, cảnh sinh hoạt, có liên quan đến vấn đề nghị luận. Yếu tố tự sự thuật lại các sự việc. Liên quan đến luận đề, luận điểm, các bằng chứng trong văn bản. Các yếu tố thuyết minh, miêu tả, tự sự trong văn bản nghị luận cần đáp ứng mục đích của văn bản là thuyết phục người đọc về ý kiến, quan điểm của người viết.
Nhan đề của văn bản nghị luận
Nhan đề của văn bản nghị luận thường khái quát nội dung chính của văn bản. Bên cạnh đó, để tăng sức thuyết phục, người viết có thể chọn những nhan đề độc đáo, khơi gợi cảm xúc nơi người đọc. Ví dụ: Nguyễn Ái Quốc đã đặt nhan đề cho chương một của Bản án chế độ thực dân Pháp là Thuế máu. Đây là một nhan đề giàu hình ảnh và giá trị biểu cảm, gây ấn tượng mạnh cho người đọc về tội ác của chính quyền thực dân và số phận bi thảm của nhân dân các nước thuộc địa trong chiến tranh.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 11, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 37")
Tìm hiểu về 3 tác gia Văn Học
Tác gia
Theo từ điển Tiếng Việt, tác gia là khái niệm dùng để gọi những tác giả lớn, có nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật gây được tác động sâu sắc tới và lâu dài tới đời sống của xã hội. Các tác phẩm ở đây có thể thuộc các lĩnh vực nghệ thuật như: văn học nghệ thuật, kiến trúc, sân khấu, điện ảnh, báo chí….
Trong chương trình học THPT bộ sách "chân trời sáng tạo" chúng ta được giới thiệu về 3 vị tác gia nổi tiếng là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Hồ Chí Minh.
(Hình ảnh minh họa theo thứ tự)
NGUYỄN TRÃI (1380-1442)
1. Nguyễn Trãi, hiệu Úc Trai, là một tác giả ở thế kỉ XV với những tác phẩm văn học lớn, đặc biệt là văn nghị luận và thơ trữ tình. Ông cũng là một nhà chiến lược quân sự tài ba đã góp công lớn trong công cuộc kháng chiến chống giặc Minh của nghĩa quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Bình Định Vương Lê Lợi. Nguyễn Trải đã có những đóng góp đặc sắc cho tư tưởng yêu nước thương dân truyền thống và nâng nó lên một tầm cao mới ở thời đại mình. Xem dân là gốc của nước nên suốt đời Nguyễn Trãi đeo đuổi lí tưởng nhân nghĩa "trừ bạo, yên dân". Nhân nghĩa trước hết hướng đến nhân dân Đại Việt đang chịu cảnh lầm than dưới ách áp bức của giặc Minh, mở rộng hơn, lí tưởng nhân nghĩa của ông còn hướng đến việc xây dựng cuộc sống thanh bình, yên vui cho nhân dân ở khắp mọi nơi. Năm 1980, UNESCO đã tổ chức ki niệm trọng thể năm sinh của ông, như một danh nhân văn hoá.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 10, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 29")
2. Nguyễn Trãi đã để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, đa dạng
Về văn, Nguyễn Trãi có các tác phẩm như: Bình Ngô đại cáo (bản tuyên bộ trước toàn dân về công cuộc đánh dẹp giặc Minh thắng lợi), Quân trung là nhà (tập sách tập hợp các thứ tự và mệnh lệnh trong quân đội, Lam Sơn thực lục (sách lịch sử ghi chép về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn), Du địa chí (sách ghi chép về đất nước Việt). Chị Linh sơn phú (bài phú núi Chí Linh), Vĩnh Lông bi kí (bài văn bia Vĩnh Lăng, ghi chép về sự nghiệp của Lê Thái Tổ), Băng Hồ di sự lục (sách ghi chép chuyện cũ về Băng Hồ tướng công - Trần Nguyên Đán), các chiếu, biểu (các bài chiếu soạn theo lệnh vua Lê Thái Tổ để dạy bảo thái tử, khuyên răn các quan, ban bố mệnh lệnh và Biểu tạ ơn).
Về thơ, sáng tác của ông có những đóng góp quan trọng về cả về chữ Hán lẫn chữ Nôm. Trong đó, Úc Trai thi tập là tập thơ chữ Hán gồm 105 bài, Quốc âm thi tập là tập thơ chữ Nôm gồm 254 bài.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 10, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 30")
3. Thơ văn Nguyễn Trãi thể hiện một tấm lòng ưu ái sắt son, một tâm hồn phong phú, nồng hậu yêu thương đối với con người, vạn vật và một nhân cách thẳng ngay cao thượng
Cuộc đội và thơ văn Nguyễn Trãi là “bài ca viêu nước và tự hào dân tộc (Phạm Văn Đồng). Với tư cách người anh hùng - nhà chiến lược quân sự trong kháng chiến chống giặc Minh, Nguyễn Trãi đã để lại những áng văn nghị luận hùng hồn sắc bén trong những bức thư dụ hàng tướng giặc như Thu lại dụ Vương Thông, Thư gửi Phương Chánh,... (Quân trung từ mệnh tập), trong đó nổi bật là Bình Ngô đại cáo -tác phẩm được đời sau xem là "thiên cổ hùng văn".
Trong tư cách nhà thơ , Nguyễn Trãi đã để lại những bài thơ trữ tình tinh tế thấm đẫm tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước và tấm lòng luôn hướng về dân như Dục Thúy sơn. Bảo kình cảnh giới - bài 43, Thuật hứng - bài 24. Đặc biệt, ông có nhiều đóng góp quan trọng cho thơ quốc âm, là một trong những người tiên phong đặt nền móng cho thơ ca tiếng Việt phát triển và có những thành tựu rực rỡ ở những thế kỉ sau.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 10, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 30,31")
Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trãi:
Văn bản 1
Bình Ngô đại cáo
Cáo là một thể văn chính luận cổ vừa có chức năng thông báo vừa có chức năng nghị luận về một vấn đề trọng đại liên quan đến đất nước, dân tộc. Cáo thường được viết theo thể văn biền ngẩu, tức vần xuôi cả đồi, đọc lên nghe nhịp nhàng, hài hoà, tạo mĩ cãm cao
Bình Ngô đại cáo là bản tuyên bố trước toàn thể nhân dân về công cuộc kháng chiến chống giặc Minh thắng lợi. Bài cáo được Nguyễn Trãi viết theo lệnh của Lê Lợi trong đã thể hiện được tâm huyết, ý chí của người lãnh tụ nghĩa quân và cũng là của chính tác giả
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 10, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 33")
Hình: Trang đầu tiên của "Bình Ngô đại cáo",nguyên bản chữ Hán, lưu tại Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước
(Nguồn:Bình Ngô đại cáo – Wikipedia tiếng Việt )
Văn bản 2
Thư lại dụ Vương Thông(Tái dụ Vương Thông Thư)
Quân trung từ mệnh tập là một tập hợp các thư từ và mệnh lệnh trong quân đội do Nguyễn Trãi biên soạn trong giai đoạn kháng chiến chồng Minh (1418-1427) theo lệnh của Bình Định Vương Lê Lợi. Phần chính trong tác phẩm là những bức thư gửi các tướng giặc Minh. Đây là những áng văn luận chiến sắc sảo, đanh thép với lập luận chặt chẽ, phân tích sáng rõ, lời lẽ khi cứng rắn, lúc mềm dẻo, linh hoạt nhằm dụ hàng quân giặc, tránh tổn thất nặng nề cho cả đôi bên.
Thư lại dụ Vương Thông là bức thư số 35 trong Quân trung từ mệnh tập. được Nguyễn Trãi viết vào khoảng tháng 2 năm Đinh Mùi (1427) nhằm phân tích tình hình khó khăn của nhà Minh và vạch rõ nguy cơ bại vong của quân giặc nếu vẫn ngoan cố giữ thành chờ viện binh.
(Nguyễn Thành Thi, "Ngữ Văn 10, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 40")