THƠ
THƠ
Đối với mình : Học thơ không chỉ là hành trình tìm hiểu về câu chữ, hình ảnh và ý nghĩa, mà còn là chuyến phiêu lưu vào thế giới cảm xúc và tư tưởng của con người. Đối với một học sinh giỏi quốc gia, việc học thơ không dừng lại ở việc ghi nhớ tác giả, tác phẩm hay phân tích theo khuôn mẫu, mà đó là quá trình khám phá những tầng sâu của nghệ thuật ngôn từ, rèn luyện tư duy sắc bén và nuôi dưỡng tâm hồn.
Thơ là tiếng nói của tâm hồn, là sự thăng hoa của ngôn từ. Khi đọc thơ, mình cảm nhận được nhịp đập của trái tim người thi nhân, những trăn trở, suy tư về cuộc đời, thiên nhiên và con người. Mỗi bài thơ đều mang một không gian nghệ thuật riêng, một dòng cảm xúc riêng, khiến mình không ngừng chìm đắm và suy ngẫm.
Những áng thơ cổ như "Truyện Kiều" của Nguyễn Du hay "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn đưa mình về với quá khứ, nơi có những tâm sự luyến tiếc, những nỗi đau chia lìa. Những vần thơ hiện đại của Xuân Diệu, Chế Lan Viên lại mở ra một thế giới đầy sắc màu, vừa yêu đời say đắm, vừa chất chứa những triết lý sâu xa.
Là một học sinh đam mê văn, mình không chỉ đọc thơ mà còn phải phân tích, bình luận và đưa ra những cảm nhận sâu sắc về tác phẩm. Mỗi bài thơ không chỉ có tầng ý nghĩa bề mặt mà còn ẩn chứa những lớp nghĩa biểu tượng, những dụng ý nghệ thuật tinh tế mà người đọc phải đào sâu tìm hiểu.
Việc học thơ chuyên sâu đòi hỏi mình phải có một vốn kiến thức phong phú về lịch sử, văn hóa, triết học, và thậm chí là phong cách sáng tác của từng nhà thơ. Không chỉ dừng lại ở việc hiểu nội dung, mình phải tập cách viết phân tích sao cho mới mẻ, sắc sảo, thể hiện góc nhìn riêng thay vì đi theo lối mòn.
Đôi khi, việc giải mã một hình ảnh thơ cũng là một thách thức lớn. Cùng một câu thơ, nhưng có thể có nhiều cách hiểu khác nhau tùy vào ngữ cảnh và cảm nhận của từng người. Điều này khiến mình luôn phải trau dồi tư duy phản biện và khả năng diễn đạt mạch lạc, thuyết phục.
Mình nghĩ dưới đây là danh sách 10 bài thơ tình hay nhưng ít người biết đến:
"Tình yêu" – Xuân Quỳnh
Một bài thơ giản dị và chân thành về tình yêu, nhưng không nổi tiếng bằng các bài thơ khác của Xuân Quỳnh như "Sóng."
"Giấc mơ đêm mùa hạ" – Bùi Giáng
Một bài thơ tình lãng mạn và mơ màng, mang phong cách rất riêng của Bùi Giáng, ít được biết đến so với các bài khác của ông.
"Chiều cuối tuần" – Hàn Mặc Tử
Bài thơ diễn tả nỗi buồn và khao khát trong tình yêu, không phổ biến bằng các tác phẩm nổi tiếng khác của Hàn Mặc Tử.
"Màu hoa trắng" – Vũ Hoàng Chương
Một bài thơ tình nhẹ nhàng và sâu lắng, ít được nhắc đến trong các tuyển tập thơ.
"Cảm xúc" – Lưu Trọng Lư
Bài thơ này thể hiện những cảm xúc phức tạp trong tình yêu, không nổi tiếng bằng các bài thơ tình khác của Lưu Trọng Lư.
"Thương nhớ" – Nguyễn Bính
Bài thơ tình đầy cảm xúc và chân thành của Nguyễn Bính, ít được biết đến so với những bài thơ nổi tiếng khác của ông.
"Hương thầm" – Phan Thị Thanh Nhàn
Một bài thơ tình cảm động, nhẹ nhàng và kín đáo, không quá phổ biến.
"Nhớ một chiều xuân" – Tố Hữu
Bài thơ tình mang phong cách cổ điển và lãng mạn của Tố Hữu, ít được biết đến hơn các bài thơ cách mạng.
"Đêm tình lặng lẽ" – Chế Lan Viên
Một bài thơ tình trầm lắng, sâu sắc, ít người nhắc đến so với các bài thơ cách mạng của Chế Lan Viên.
"Em đi qua đời anh" – Trần Dần
Một bài thơ tình hiện đại, phá cách và đầy sáng tạo, chưa được nhiều người biết đến.
Những bài thơ này có thể không được biết đến rộng rãi, nhưng đều chứa đựng những cảm xúc sâu lắng và nghệ thuật ngôn từ đặc sắc.
1. Chủ thể trữ tình
Chủ thể trữ tình là khái niệm chỉ người thể hiện thái độ, cảm xúc, tư tưởng của mình trong suốt văn bản thơ. Đọc thơ trữ tình, trước mắt ta không chỉ xuất hiện những cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt, những con người, sự kiện mà còn gợi lên hình tượng một ai đó đứng ngắm nhìn, đang rung động, suy tưởng về chúng, về cuộc sống nói chung. Hình tượng ấy chính là chủ thể trữ tình trong thơ. Chủ thể trở anh thường xuất hiện trực tiếp với các đại từ nhân xưng "tôi", "ta", "chúng ta "anh", "em" hoặc nhập vai vào một nhân vật nào đó, cũng có thể là "chủ thể ẩn" . Các hình thức xuất hiện nêu trên của chủ thể trữ tình cũng có thể thay đổi, xen kẽ trong một bài thơ
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 10, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 63)
2. Vần và nhịp
2.1. Vần tạo nên sự kết nối, cộng hưởng âm thanh giữa các dòng thơ, đồng thời làm cho thơ để nhớ, dễ thuộc hơn. Cách gieo vần phụ thuộc vào yêu cầu và quy cách riêng của mỗi thể thơ. Nhưng nói chung, xét về vị trí xuất hiện, có vần chân (cước vận) là vần giữa các chứ ở cuối dòng thơ vần lưng (yêu vận) là vần giữa chữ cuối của đồng trước với chứ ở gần cuối hay ở khoảng giữa của dòng thơ sau, hoặc giữa các chữ ngay trong một dòng thơ. Xét về thanh điệu, có vần thanh trắc (1) và vần thanh bằng (B).
2.2. Nhịp (hay ngắt nhịp) là cách tổ chức sắp xếp sự vận động của lời thơ, thể hiện qua các chỗ đứng, chỗ nghỉ khi đọc bài thơ. Cách ngắt dòng, ngắt nhịp trong từng dòng thơ, câu thơ tạo nên hình thức của nhịp thơ. Nhịp thơ là nhân tố tạo nên bước đi của thơ với âm vang nhanh, chậm, dài ngắn, nhặt, khoan,...
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 10, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 63)
3. Từ ngữ và hình ảnh trong thơ
Từ ngữ, hình ảnh trong thơ mang lại sức gợi cảm lớn, có khả năng chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa. Hình ảnh trong thơ có thể được miêu tả trực quan, các hình thức láy, điệp làm cho đường nét, màu sắc trở nên lung linh, sống động, hoặc có thể gợi tả gián tiếp bằng liên tưởng, tưởng tượng, các biện pháp tu từ như so sánh, ấn dụ nhân hoá, hoán dụ làm cho cái vô hình trở nên hữu hình, ấn tượng, cái vô tri, vô giác trở nên có hồn và giàu ý nghĩa. Hình ảnh trong thơ luôn chứa đựng tâm hồn của nhà thơ
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 10, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 64)
4. Tình cảm, cảm xúc trong thơ
Tình cảm, cảm xúc trong thơ là những rung động nội tâm, những cảm nhận của nhà thơ về cuộc sống. Tình cảm, cảm xúc trong thơ đánh thức những rung động tinh tế trong trái tim người đọc.
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 10, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 4)
5. Cảm hứng chủ đạo trong thơ
Cảm hứng chủ đạo trong thơ: Cảm hứng là trạng thái tâm lí dạt dào cảm xúc và sự lôi cuốn, thôi thúc mãnh liệt đối với con người khi tiếp xúc với một hiện tượng sự vật hay thực hiện một công việc, một hành động nào đó. Cảm hứng chủ đạo trong thơ là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm thơ, tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm. Một tác phẩm thơ có thể có nhiều cảm hứng, nhưng chỉ có một cảm hứng chủ đạo vì đó là cảm hứng chính, bao trùm tác phẩm.
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 10, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 5)
6. Tượng trưng
Tượng trưng là loại hình ảnh mang tính trực quan, sinh động nhưng hàm nghĩa biểu đạt những tư tưởng, quan niệm, khái niệm trừu tượng. Chẳng hạn, chim bồ câu tượng trưng cho hoà bình, hoa hồng đỏ tượng trưng cho tình yêu hoặc lá cờ tượng trưng cho quốc gia.
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 11, tập 2, Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022, tr. 59)
7. Yếu tố tượng trưng của thơ trữ tình
Yếu tố tượng trưng trong thơ trữ tình: Thông thường, thơ trữ tình diễn tả thế giới nội tâm của chủ thể trữ tình thông qua những chi tiết, hình ảnh cụ thể, gợi cảm. Tuy nhiên, một số tác phẩm thơ trữ tình còn đi sâu vào những vấn đề triết học, thông qua những chi tiết có tính tượng trưng cao. Yếu tố tượng trưng trong thơ trữ tình là những chi tiết, hình ảnh cụ thể, gọi cảm gợi lên những ý niệm trừu tượng và giàu tính triết lí, đánh thức suy ngẫm của người đọc về bản chất sâu xa của con người và thế giới. Chẳng hạn, hình ảnh tháp Bayon trong bài thơ Tháp Bayon bốn mặt (Chế Lan Viên) tượng trưng cho thế giới tâm hồn đa diện, phức tạp của con người:
Anh là tháp Bayon bốn mặt
Giấu đi ba, còn lại đấy là anh
Chỉ một đó mà nghìn trở cười khúc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ấn hình.
Trong nhiều trường hợp, yêu tố tương trung trong thơ trữ tình còn gắn với sự đề cao nhạc tỉnh của thơ (sức gọi cấm của nhịp thơ, vần, thanh điệu,...) và sự tương giao giữa các giác quan (sự hoà hợp của các ấn tượng thính giác, thị giác, xúc giác,...).
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 11, tập 2, Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 59-60)
9.Phong cách
Khái niệm: Phong cách là một tập hợp những nét độc đáo tương đối ổn định có giá trị thẩm mĩ trong sáng tác của một tác giả (phong cách tác giả), một trường phải văn học (phong cách trường phái), một thời đại (phong cách thời đại) hay một nền văn học (phong cách dân tộc). Đặc trưng phong cách được tạo thành từ quan niệm (cái nhìn) riêng về thế giới, con người, thể hiện qua hệ thống đề tài, tư tưởng, cảm hứng, hình tượng nhân vật và các thủ pháp nghệ thuật được ưa chuộng.
9.1. Phong cách cổ điển có đặc điểm nổi bật là đề cao tính chất khuôn mẫu, chuẩn mục về tư tưởng (đạo lí, lí tưởng sống...) và nghệ thuật (những quy định về thể loại, với hệ thống ngôn từ tao nhã, hình ảnh ước lệ tượng trưng, sử dụng nhiều điển tích, điển cố,...)
Ở Trung Quốc và Việt Nam, phong cách cổ điển gắn với quan niệm "thiên nhân hợp nhất (con người và trời đất là một), hệ thống ngôn ngữ giàu tình ước lệ, giàu điển tích, điển có. Thơ ca đời Đường (Trung Quốc) và đa số thơ trung đại Việt Nam là đại diện của phong cách này.
9.2. Phong cách lãng mạn có đặc điểm là đề cao cảm xúc và trí tưởng tượng của con người, có khuynh hướng phá vỡ các quy phạm nhằm giải phóng con người cả nhân bộc lộ cá tính một cách tự do nhất
Ở Việt Nam, phong cách lãng mạn phát triển thành một trào lưu lớn vào khoảng những năm 1930 - 1945 với phong trào Thơ mới (Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bình), văn xuôi của Tự lực văn đoàn (Khải Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam.), sáng tác của Nguyễn Tuân và nhiều nhà văn khác trước năm 1945. Trào lưu này gắn với sự bứt phá khỏi những khuôn khổ thì luật và ngôn ngữ của thơ văn trung đại, giải phóng cái tới thời hiện đại và cả tính sáng tạo của nhà văn.
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 12, tập 1, Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 9-10)
10. Lịch sử/tiến trình lịch sử văn học
Lịch sử tiến trình lịch sử văn học là một hệ thống tác giả, tác phẩm với sự hình thành, tồn tại, thay đổi, phát triển qua các thời kì lịch sử, bao gồm: có đai, trung dai hiện đại. Trong từng thời kì, có thể phân chia thành các giai đoạn văn học.
Lịch sử văn học viết của Việt Nam, tính từ thế kỉ X đến nay, gồm văn học trung đại và văn học hiện đại. Văn học trung đại Việt Nam thường được chia thành bốn giai đoạn: giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XV; giai đoạn từ đầu thế kỉ XVI đến hết thế kỉ XVII; giai đoạn từ đầu thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX và giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX. Văn học hiện đại Việt Nam thường được chia thành thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 và thời kì từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay. Mỗi thời kì nói trên lại được chia ra các giai đoạn gắn vớ bối cảnh phát triển cụ thể của văn học. Ví dụ, thời kì thứ nhất của văn học hiện đại Việt Nam chia thành hai giai đoạn: giai đoạn từ đầu thế kỉ XX đến 1930 và giai đoạn năm 1930 - 1945.
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 12, tập 1,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 10)
11. Yếu tố siêu thực trong thơ trữ tình
Siêu thực thường được hiểu là sự kì lạ, khác thường, phá vỡ những quy luật thông thường của thế giới thực tại, gọi nhắc đến sự bí ẩn, phi logic của những giác mơ và của những ám ảnh vô thức.
Yếu tố siêu thực: Ngoài việc tái hiện thế giới tình cảm, cảm xúc, tâm trạng của chủ thể trừ tình, một số tác phẩm thơ trữ tình có thể xây dựng một thế giới khác lạ bằng việc sử dụng các kết hợp từ ngữ, những hình ảnh rất xa nhau, thông thường khó liên kết với nhau. Việc kết hợp này nhằm phá vỡ trật tự thông thường của tư duy li tỉnh, gọi nhấc sự bí ẩn, phi logic của những giấc mơ, ấn ức sâu trong vô thức. Chẳng hạn, sự kết hợp giữa hình ảnh "mặt nhật” (mặt trời) và “máu”, “khối” và “lòng tôi", "cứng" và "si" trong thơ của Hàn Mặc Tử:
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tợ si
(Hàn Mặc Tử, Những giọt lệ)
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 12, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,t r. 5-6)
12. Hình tượng và biểu tượng
Hình tượng là những hình ảnh, nhân vật được xây dựng một cách sống động, sáng tạo trong tác phẩm, vừa phản ánh đời sống vừa thể hiện quan niệm, tu tưởng và ý đồ, tài năng nghệ thuật của người nghệ sĩ. Chẳng hạn như hình tượng Mô-na Li-sa (Mona Lisa) trong bức tranh cùng tên của Lê-ô-na-đó đỡ Vanhxu (Leonardo da Vinci), hình tượng nàng Kiều trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), hình tượng người mẹ anh hùng trong thơ Tố Hữu,...
Biểu tượng là một loại hình ảnh đặc biệt, thông qua hình thức cụ thể, trực quan để gọi lên những tư tưởng, triết lí có ý nghĩa sâu xa. Chẳng hạn, hình ảnh cây tre trong đời sống và nhiều tác phẩm nghệ thuật đã trở thành biểu tượng cho những đức tỉnh, phẩm chất cao đẹp, cho vẻ đẹp tâm hồn của con người, dân tộc Việt Nam.
(Nguyễn Thành Thi, Ngữ Văn 12, tập 2,Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022,tr. 6)
Ngữ Liệu Tham Khảo