Vịnh bách chu - tức sương nữ

Hồ Xuân Hương

Chiếc bách (1) buồn về phận nổi nênh,

Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.

Lưng khoang tình nghĩa mong đầy đặn,

Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.

Chèo lái mặc ai lăm đỗ bến,

Buồm lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.

Ấy ai thăm ván (2) cam lòng vậy,

Ngán nỗi ôm đàn (3) những tấp tênh.


(1) chiếc bách: Chiếc thuyền bằng gỗ bách; nguyên là tên bài thơ Bách chu trong Kinh Thi, nội dung nói chiếc bách lênh đênh, trôi nổi theo dòng nước... Sau văn học cổ dùng từ “chiếc bách”, “thuyền bách” để chỉ thân phận lênh đênh, trôi dạt, không nơi nương tựa của người phụ nữ.

(2) thăm ván: “thăm ván bán thuyền”; nghĩa đen chỉ việc muốn bán thuyền cũ đóng thuyền mới; nghĩa bóng chỉ sự phụ bạc, có mới nới cũ...

(3) ôm đàn: Từ chữ Hán “bão tỳ bà” (ôm đàn tỳ bà) có nghĩa là tái giá. Nguyên gốc từ bài Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị có câu: “Do bão tỳ bà bán già diện” (còn ôm đàn tỳ bà che nửa mặt).