Cảm thu tiễn thu

Tản Đà

Điệu Trường đoản ca


Từ vào thu đến nay,

Gió thu hiu hắt,

Sương thu lạnh,

Giăng thu bạch,

Khói thu xây thành.

Lá thu rơi rụng đầu ghềnh,

Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.

Nhạn về én lại bay đi,

Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm.

Lá sen tàn tạ trong đầm,

Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa.

Sắc đâu nhuộm ố quan hà,

Cỏ vàng, cây đỏ, bóng tà tà dương.

Nào người cố lý tha hương,

Cảm thu, ai có tư lường hỡi ai?


Nào những ai,

Bảy thước thân nam tử,

Bốn bể chí tang bồng;

Đường mây chưa bổng cánh hồng,

Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu my.


Nào những ai,

Sinh trưởng nơi khuê các,

Khuya sớm phận nữ nhi.

Song the ngày tháng thoi đi,

Vương tơ ngắm rện nhỡ thì thương hoa.


Nào những ai,

Tha phương khách thổ,

Hải giác thiên nha,

Ruột tầm héo, tóc sương pha,

Gốc phần chạnh tưởng quê nhà đòi cơn.


Nào những ai,

Cù lao báo đức,

Sinh dưỡng đền ơn,

Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn,

Giầu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn.


Nào những ai,

Tóc xanh mây cuốn.

Má đỏ huê ghen,

Làng chơi duyên đã hết duyên.

Khúc sông giăng rãi con thuyền chơi vơi.


Nào những ai,

Dọc ngang giời rộng,

Vùng vẫy bể khơi,

Đội giời đạp đất ở đời;

Sa cơ thất thế quê người chiếc thân.


Nào những ai,

Kê vàng tỉnh mộng,

Tóc bạc thương thân,

Vèo trông lá rụng đầy sân,

Công danh phù thế có ngần ấy thôi.


Thôi nghĩ cho,

Thu tự giời,

Cảm tự người,

Người đời ai cảm ta không biết,

Ta cảm thay ai, viết mấy lời.


Thôi thời,

Cùng thu tạm biệt,

Thu hãy tạm lui,

Chi để khách đa tình đa cảm,

Một mình thay cảm những ai ai.


Tháng chín năm Canh Thân 1920


(Hữu thanh)


Nguồn:

1. Thơ Tản Đà, Nghiêm Hàm ấn quán, Hà Nội, 1925

2. Tản Đà, Khối tình con thứ ba, Tản Đà thư cục tùng thư, 1932


 


Tản Đà