Văn tế cô Giang

Phan Bội Châu

Than ôi!

Sóng nhân đạo ở hai mươi thế kỷ, bạn má hồng toan cướp gái làm trai;

Gương nữ hùng treo một khoé trời Nam, lũ da trắng phải ghê dòng nước Việt.


Trên quốc sử mực chàm giấy phấn, “ông” cả đoàn nhan nhản bầy nô;

Dưới Long Thành máu biếc cỏ xanh, gái đến thế rành rành chữ liệt.


Trăng thu mờ mịt, trông những buồn tênh;

Người ngọc xa xôi, nghĩ càng đau tuyệt.


Nhớ bạn ta xưa:

Đất nhả tinh hoa;

Trời treo băng tuyết.


Vóc quần thoa nhưng chí khí tu mi;

Thân khuê các mà can trường khí tiết.


Thuở bé nhờ ơn gia giáo, Hán học vừa thông;

Tuổi xanh vào học quốc trường, Pháp văn cũng biết.


Tang hải gặp hồi xoay cuộc, ngó giang sơn trạnh một lòng đau;

Trần ai tức tối không người, thấy nô lệ dọc đôi tròng nguýt.


Xót bốn nghìn năm Tổ quốc, chôn nhau cắt rún, nặng nề trăm đoạn tình ly;

Thương hăm lăm triệu đồng bào, nát thịt tan xương, chất chứa một bầu tâm huyết.


Xem sách Pháp từng đem óc nghĩ Lân Đá, La Lan thuở nọ, chị em mình há dễ ai hơn;

Giở sử nhà thoạt vỗ tay reo Bà Trưng, Triệu Ẩu xưa kia, non nước ấy có đâu hồn chết.


Triều cách mạng đang cơn sùng sục, cát Tinh Vệ ngậm đầy trước miệng, mong thấy bể vùi;

Vai quốc dân nặng gánh trìu trìu, đá Nữ Oa rèn sẵn trong tay, nỡ xem trời khuyết.


Sá chi gai mắt cường quyền;

Nên phải thi gan quả quyết.


Khi nhập đảng tuổi vừa hai tám, cờ nữ binh đóng đội tiên phong;

Lúc tuyên truyền phách động ba quân, lưỡi biện sĩ nhường tài du thuyết.


Thổi gió phun mây từng mấy trận, nào Lâm Thao, nào Yên Bái, nữ tham mưu đưa đẩy đội hùng binh;

Ra sinh vào tử biết bao phen, kia thành huyện, kìa đồn binh, quân nương tử xông pha vùng rắn rết.


Thầy Học vẫn tài hùng phách tráng, nhờ có cô mà lông cánh rợp tứ phương;

Chị Bắc đành dạ sắt lòng son, cậy có em mới trong ngoài xưng lưỡng kiệt.


Tiếc thay!

Vận nước đang truân;

Tai trời chưa hết!


Việc thuỷ thành mà một phút tan tành;

Mưu trung bại bởi mấy thằng gian quyệt.


Trắc trở buồm xuôi gió ngược, tài anh thư gặp bước gian truân;

Ngại ngùng nước biếc non xanh, tay chức nữ uổng công thêu dệt.


Nhưng cô còn:

Thiết thạch nhất tâm;

Chu toàn bách chuyết.


Thời như thế, sự đành phải thế, đài cắt đầu mừng được thấy anh lên;

Sống là không, thác cũng là không, đạn kề cổ chẳng nhường cho giặc giết.


Súng lục liên phút chốc, vang lừng một tiếng, núi đổ sông nhào;

Hồn cửu tử chưa tan, chắc chắn trùng lai, thần reo quỷ thét.


Em Châu nay:

Tình cũ cảm sâu;

Duyên xưa rủi thiệt.


Từng mấy lúc hồng đi cá lại, ước ao chung gánh ruổi trường đồ;

Giận nhiều phen én Bắc nhạn Nam, đau đớn chia tay thành vĩnh biệt.


Nợ hồ thỉ em chưa trắng sổ, mài nanh giũa vuốt, ước ba sinh chắc có ngày đền;

Thù nước nhà chị hãy tím gan, nuốt muối ngậm gừng, hồn chín suối chờ xem trời xét.


Than ôi!

Khóc chẳng gì hay;

Nói khôn kể xiết!


Một nén tâm hương;

Mấy lời thảm thiết!


Chị em mình chỉn thiếu bạn khôn ngoan;

Đoàn thể lớn từ nay xin cấu kết!


Xum bạn gái sẽ theo gót chị, thác đã linh mà sống lại càng linh;

Xoay cuộc đời sẽ xoá bàn cờ, quốc chưa diệt thì chủng không thể diệt!


Tiếng hạc kêu chắc thấu trời nghe;

Tờ giấy máu xin ghi lời viết.


Ô hô! Thượng hưởng!


Nguyễn Thái Học (1902-1930) quê ở Thổ Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc, là một nhà cách mạng Việt Nam chủ trương dùng vũ lực lật đổ chính quyền thực dân Pháp, giành độc lập cho Việt Nam, thành lập một nước Việt Nam độc lập với thể chế cộng hoà và thiết lập một nền dân chủ trên toàn cõi Đông Dương. Ông là một trong số những người sáng lập Việt Nam quốc dân đảng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị thực dân Pháp bắt và chém đầu ngày 17-6-1930 tại Yên Bái. Trước khi chết ông hô to “Việt Nam vạn tuế”.


Cô Giang (1906-1930) tức Nguyễn Thị Giang, người tỉnh Bắc Giang, gia nhập Việt Nam quốc dân đảng dưới quyền của Nguyễn Khắc Nhu. Năm 1929, cô phụ trách giao thông cho tổng bộ với các nơi, gặp Nguyễn Thái Học rồi hai người tới đền thờ tổ Hùng Vương thề làm vợ chồng. Khi Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Học bị bắt giải lên Yên Bái, cô đáp xe đi mang theo khẩu súng và trái bom định phá pháp trường, nhưng bị lính canh ngặt không thực hiện được. Chứng kiến xử chém xong, cô về nhà trọ viết hai bức thư tuyệt mạng, rồi về quê nhà thăm cái quán mà cô cùng Học đã cùng nhau tâm sự, cầm súng tự bắn vào thái dương tự sát. Lúc ấy cô có mang mấy tháng.