Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão 范五老 sinh năm Ất Mão (1255), tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là Ân Thi, Hưng Yên, mất năm Canh Thân (1320), thọ 65 tuổi. Khi Phạm Ngũ lão mất, Vua Trần Minh Tông vô cùng thương tiếc thương tiếc nên nghỉ chầu đến năm ngày. Đó là một ân điển đặc biệt mà đương thời, ngay cả quý tộc họ Trần cũng không mấy ai có được. Về việc Phạm Ngũ Lão được hưởng ân huệ đặc biệt này, sách Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ, quyển 6, tờ 38 a-b) chép rằng: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, sống phóng khoáng, có chí lớn thích ngâm thơ, xem qua có vẻ như không để ý đến việc võ bị nhưng quân do ông chỉ huy thực là đội quân trên dưới như cha con, hễ đánh là thắng”.

Ông là danh tướng giỏi của triều Trần, là chỗ dựa tin cậy của 3 triều vua nhà Trần. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên lần thứ hai (1285-1287) và lần thứ ba (1288) ông lập được nhiều chiến công lớn tại các trận: Tây Kết, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, Nội Bàng, Lạng Sơn... Từ năm 1294 đến 1318, Phạm Ngũ Lão đã bốn lần cất quân đi trừng phạt sự xâm chiếm, quấy nhiễu của quân Ai Lao, hai lần Nam chinh đánh thắng quân Chiêm Thành, buộc vua Chiêm là Chế Chí phải xin hàng. Năm 1302, nghịch thần Biếm nổi lên chống lại triều đình, cũng bị Phạm Ngũ Lão đập tan.

Thuật hoài


Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,

Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu


Dịch nghĩa:

Cầm ngang ngọn giáo (giữ gìn) non sông đã mấy thu

Ba quân như gấu hổ át sao Ngưu, Đẩu

Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,

Hổ thẹn khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.


述懷


橫槊江山恰幾秋,

三軍貔虎氣吞牛。

男兒未了功名債,

羞聽人間說武侯。

Vãn thượng tướng quốc công Hưng Đạo đại vương 

Trường Lạc chung thanh đệ nhất chuỳ

Thu phong tiêu táp bất thăng bi

Cửu trùng minh giám kim vong hĩ

Vạn lý trường thành thục hoại chi

Vũ ám trường giang không lệ huyết

Vân đê phức đạo toả sầu my

Ngưỡng quan Khuê tảo từ phi dật

Ngư thuỷ tình thâm kiến vịnh thi.


輓上將國公興道大王


長樂鐘聲遞一槌,

秋風蕭颯不勝悲。

九重明鑑今亡矣,

萬里長城孰壞之。

雨暗長江空淚血,

雲低複道鎖愁眉。

仰觀奎藻詞非溢,

魚水情深見詠詩。


Dịch nghĩa:

Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo đại vương


Tiếng chuông cung Trường Lạc một hồi vang lên

Gió thu hiu hắt, đau thương khôn xiết

Tấm gương sáng của cửu trùng nay đã mất rồi

Bức trường thành vạn dặm ai làm cho sụp đổ?

Mưa phủ kín sông dài, luống tuôn lệ máu

Mây sa xuống đường sạn đạo nhíu hàng mi sầu

Ngước xem văn chương lời lời cô đúc

Tình sâu cá nước đã hiện ra ở lời thơ vịnh.