Bạch Đằng hải khẩu


Nguyễn Trãi

Sóc phong xuy hải khí lăng lăng,

Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.

Ngạc đoạn kình khô (1) sơn khúc khúc,

Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.

Quan hà bách nhị (2) do thiên thiết, (3)

Hào kiệt công danh thử địa tằng.

Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,

Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.

(1) Kình, ngạc: ý nói chiến thuyền của địch (như cá kình, cá ngạc) bị tan rã như núi non đứt đoạn.

(2) Rút ý từ việc nhà Tần dựa vào địa thế hiểm yếu, nên hai người có thể địch với trăm người.

(3)Ý nói địa thế thiên nhiên hiểm trở có lợi cho kháng chiến.


Dịch nghĩa:

Cửa biển lồng lộng, gió bấc thổi băng băng;

Buồm thơ nhẹ lướt qua sông Bạch Đằng.

Nhìn núi từng khúc, như cá mập, cá sấu bị chặt từng đoạn,

Nhìn bờ từng lốp, như giáo kích gươm đao bị gãy chìm.

Cảnh núi sông hiểm yếu, tạo ra cái thế “lấy ít địch nhiều”,

Đây là nơi hào kiệt từng lập nên công danh oanh liệt.

Việc xưa nghĩ lại, ôi tất cả đã qua rồi!

Tới đây viếng cảnh, nỗi lòng sao biết nên chăng?


白藤海口

朔風吹海氣凌凌,

輕起吟帆過白藤。

鱷斷鯨刳山曲曲,

戈沉戟折岸層層。

關河百二由天設,

豪傑功名此地曾。

往事回頭嗟已矣,

臨流撫影意難勝。


Biển rung, gió bấc thổi băng băng,

Nhẹ cất buồm thơ lướt Bạch Đằng.

Kình ngạc băm vằm non mấy khúc,

Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng.

Quan hà hiểm yếu trời kia đặt,

Hào kiệt công danh đất ấy từng.

Việc cũ quay đầu, ôi đã vắng,

Tới dòng ngắm cảnh dạ bâng khuâng.


Bản dịch của Nguyễn Đình Hồ