Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu


Nguyễn Du

Tạc thông Lĩnh đạo định Viêm khư,

Cái thế công danh tại sử thư.

Hướng lão đại niên căng quắc thước,

Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư.

Đại Than phong lãng lưu tiền liệt,

Cổ miếu tùng sam cách cố lư.

Nhật mộ thành Tây kinh cức hạ,

Dâm Đàm (1) di hối cánh hà như.


(1) Dâm Đàm

Một tên gọi khác của Lãng Bạc, là Hồ Tây ngày nay. Mã Viện thống suất toàn quân tiến theo ven biển, ngược sông Bạch Đằng tới sông Lục Đầu rồi vào đất Giao Chỉ, đi thẳng tới Lãng Bạc. Quân Hán tiến đến Long Biên, Tây Vu và Lãng Bạc ở phía đông Cổ Loa. Hai Bà Trưng từ Mê Linh qua Cổ Loa xuống Lãng Bạc đón đánh quân Hán. Tại đây, hai bên đã giao chiến dữ dội. Quân Hán không hợp thuỷ thổ phương Nam, nhiều người bị chết, trong đó có Bình Lục hầu Hàn Vũ. Trời nóng bức, hơi độc từ hồ bốc lên, diều hâu bay không được. Viện hối hận đã không nghe lời em mình.



Bản dịch của Nguyễn Thạch Giang

Mở đường Ngũ Lĩnh đánh Viêm bang,

Công trạng ghi trong cuốn sách vàng.

Già lão khoe khoang còn có sức,

Áo cơm no đủ há cầu sang!

Ghềnh cao sóng dữ nêu oanh liệt,

Miếu cũ thông xưa cách cố hương.

Chiều dưới chân thành gai góc nọ,

Dâm Đàm hối cũ nhớ hay chăng?


Dịch nghĩa


Đục xuyên qua đường Ngũ Lĩnh, bình định cõi Nam

Công danh trùm đời ghi trên sử sách

Già lớn tuổi rồi còn khoe quắc thước

Ngoài cơm áo ra, mọi thứ là thừa

Sóng gió Đại Than còn để dấu công oanh liệt thời trước

Cây tùng, cây sam ở ngôi miếu cổ xa cách quê nhà

Chiều tà dưới đám gai góc phía tây thành

Nỗi hận ở Dâm Đàm, sau cùng ra làm sao?