Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu kỳ 1


Nguyễn Du

Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải,

Thử địa do văn lan chỉ hương.

Tông quốc tam niên bi phóng trục,

Sở từ vạn cổ thiện văn chương.

Ngư long giang thượng vô tàn cốt,

Đỗ nhược châu biên hữu chúng phương.

Cực mục thương tâm hà xứ thị,

Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương..


湘潭弔三閭大夫其一


好修人去二千載,

此地猶聞蘭芷香。

宗國三年悲放逐,

楚詞萬古擅文章。

魚龍江上無殘骨,

杜蒻洲邊有眾芳。

極目傷心何處是,

秋風落木過沅湘


Hai nghìn năm vắng người sửa đức

Nơi đây còn thơm nức chỉ lan

Ba năm đất trích phũ phàng

Sở Từ muôn thuở rỡ ràng văn chương

Sông cá rồng nắm xương khôn giữ

Bãi hoa lồng trăm thứ cỏ thơm

Nơi nào gởi mối thương tâm

Lá thu gió rụng nẻo tầm Nguyên Tương

Bản dịch của Quách Tấn



Người hiếu tu sống cách hai nghìn năm,

Ngày nay đất này còn thơm mùi hoa chỉ, hoa lan.

Xa quê ba năm buồn phiền vì bị tống xuất,

Nghìn đời sau thơ của ông vẫn hay nhất.

Rồng cá đầy sông cốt tìm chẳng thấy,

Bên bờ Đỗ nhược có giống cỏ thơm.

Nhướng mắt đau lòng không biết là đâu,

Gió thu lá rụng khi qua vùng Nguyên, Tương.


Tương Đàm (Trường Sa): tên một huyện tỉnh Hồ Nam.

Tam lư đại phu: là chức tước của Khuất Nguyên người nước Sở đời Chiến Quốc. Khuất Nguyên là người tài giỏi lúc đầu được vua Sở tin dùng và thực thi chủ trương chính trị do ông đề xướng, nhưng sau vì lới gièm pha của nịnh thần ông bị đầy đi Giang Nam. Ngày mồng 5 tháng 5 ông trẫm mình ở Mịch La.