Ninh Công thành 寧公城 • Thành Ông Ninh


Nguyễn Du

Độc thướng cao sơn nhãn giới tân,

Anh hùng vãng sự quải giang tân.

Nhất thành thượng hạ tận kiều mộc,

Thập lý uy phong kiến cổ nhân.

Thử địa bắc nam quy nhất trục,

Đương thì tỉnh táo trú tam quân.

Thập niên vị tiết nam nhi hận,

Đàn kiếm trường ca đối bạch vân.


寧公城


獨上高山眼界新,

英雄往事掛江津。

一城上下盡喬木,

十里威風見古人。

此地北南歸一軸,

當時井燥駐三軍。

十年未泄男兒恨,

彈劍長歌對白雲。

Một mình trèo lên núi cao, tầm mắt mới hẳn,

Chuyện cũ của người anh hùng vẫn còn, như bức hoạ treo nơi bến sông.

Trên thành, dưới thành, cây cao tầng tầng lớp lớp,

Nhìn xa mười dặm vẫn thấy oai phong người xưa.

Nơi đây từng là cái trục giữa nam, bắc,

Thưở ấy có giếng có bếp làm nơi đóng quân.

Suốt mười năm, ta chưa rửa được mối hận của nam nhi,

Hãy gõ nhịp vào gươm mà ca hát trước chòm mây trắng!


Bản dịch của Nguyễn Thạch Giang

Non cao trước mắt cảnh trưng bày,

Chuyện cũ anh hùng bến nước đây.

Mười dặm oai phong hào kiệt trước,

Một thành trên dưới cối cây đầy.

Nơi đây một mối bắc nam hợp,

Thủa ấy ba quân bếp giếng xây.

Hận trẻ mười năm chưa rửa được,

Hát ngao vỗ kiếm dưới chòm mây.


Bản dịch của Đào Văn Nghi

Trèo lên đỉnh núi mắt còn ngây.

Cái thuở hùng anh tại bến này.

Trên dưới một thành cây cao mọc.

Oai phong mươi dặm dáng phơi bày.

Bắc nam tụ hội về nơi ấy.

Giếng, bếp đồn quân trú tại đây.

Nỗi hận mười năm chưa rửa được.

Nhìn mây, gõ kiếm thở than vầy.