Vịnh Hồ Tây
Nguyễn Công Trứ

Mưỡu:

Dập dìu trăng mạn gió lèo,

Lỏng ngâm vân thuỷ lơi chèo yên ba.


Nói:

Cảnh Tây Hồ khen ai khéo đặt,

Trong thị thành riêng một áng lâm tuyền.

Bóng kỳ đài giăng mặt nước như in,

Tàn thảo thụ lum xum toà cổ sát.  (1)

Chiếc cô vụ, mảnh lạc hà bát ngát, (2)

Hỏi năm nao vũ quán điếu đài. (3)

Mà cỏ hoa man mác dấu thương đài,

Để khách rượu làng thơ ngơ ngẩn.

Yên tiêu Nam quốc mỹ nhân tận,

Oán nhập đông phong phương thảo đa. (4)

Đồ thiên nhiên một áng yên ba,

Dễ khiển hứng câu thơ chén rượu.

Buồm nửa lá trăng thanh gió dịu,

Chiền đâu đây một tiếng chuông rơi.

Tây Hồ cảnh biết mấy mươi.


(1) cổ sát: chùa cổ, đây chỉ chùa Trấn Quốc

(2) Cô vụ: con cò lẻ loi; lạc hà: ráng chiều; lấy ý tứ bài Đằng Vương các tự của Vương Bột đời Đường: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi, Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” 落霞與孤騖齊飛,秋水共長天一色 (Ráng chiều với con cò lẻ cùng bay, Nước mùa thu với trời thẳm cùng một màu).

(3) Vũ quán: quán múa hát; điếu đài: đài câu cá (của chúa Trịnh xây trên Hồ Tây).

(4)  煙銷南國美人盡,怨入東風芳草多. Nghĩa: Hương tàn người đẹp phương Nam hết, Buồn thấy gió đông thổi vào cỏ thơm nhiều.