Văn hải đào thanh 聞海濤聲 • Nghe tiếng sóng biển


Ngô Thì Nhậm

Kim thiết trầm trầm, tịch dạ minh,

Khanh oanh biện đắc hải đào thanh,

Súc năng tái trọng nghi vô nộ,

Khiêm bản cư ty khởi bất bình.

Thế vị thừa phong bôn sử cấp,

Cơ nhân khích ngạn phát lôi oanh.

Tối thâm tình xứ hà nhân trắc,

Nạp tận quần xuyên độc ố doanh. (1)


(1) Ghét sự đầy tràn, ý nói biển cả không ưa sự tự mãn, lúc nào cũng như chưa đủ, nên thu hết mọi dòng sông, mà nước vẫn không đầy tràn.


聞海濤聲


金鐵沉沉寂夜鳴,

鏗訇辨得海濤聲。

畜能載重宜無怒,

謙本居卑起不平。

世為承風奔駛急,

机因擊岸發雷轟。

最深情處何人測,

納盡群川獨惡盈。


2. Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập II), NXB Khoa học xã hội, 2004, tr. 360



Tiếng chen vàng sắt lúc canh tàn,

Nghe rõ oang oang sóng biển rờn.

Lượng vốn mang nhiều, đâu giận dỗi ?

tính quen ở thấp, há phàn nàn ?

Được cơn gió cả, càng bon mạnh,

Gặp chỗ bờ cao, lại nổ ran.

Còn nghĩa sâu xa ai đã biết,

Thu muôn dòng nước vẫn không tràn.

Bản dịch của Đỗ Ngọc Toại


Tiếng vàng tiếng sắt đằm đằm, bặt lúc đêm khuya

Chợt nghe tiếng ỳ ầm, nhận rõ là tiếng sóng biển

Lượng súc tích vẫn mang được nặng, chắc không giận dỗi gì

Tính khiêm tốn vốn ở chỗ thấp, há có bất bình ru

Được thế gió mạnh, chạy nhanh hơn ngựa

Gặp chỗ bờ ngăn, xoáy thành tiếng vang như sấm

Cái nơi chốn thân tình nhất, ai đã lường biết

Thu hết mọi dòng sông, mà không ưa sự đầy tràn