Thuỷ thanh 水聲 • Tiếng nước


Ngô Thì Nhậm

Thuỷ bản vô thanh, khước hữu thanh,

Tăng oanh giang thượng vị thuỳ minh.

Trường lưu thuận chú, nguyên thường tĩnh,

Đoạn thạch hoành lan, nãi bất bình.

Ngạnh vị khứ thời, ưng hữu nộ,

Lượng năng dung xứ, tiện vô tranh.

Thái hoà quân tử tu tiềm hội,

Thấu triệt ngân quang đáo để minh.


水聲


水本無聲卻有聲,

嘈鏗江上為誰鳴。

長流順注原常靜,

斷石橫欄乃不平。

哽未去時應有怒,

量能容處便無爭。

太和君子須潛會,

透徹銀光到底明。

Nguồn: Ngô Thì Nhậm toàn tập (tập III), NXB Khoa học xã hội, 2005

Nước vốn không vang tiếng mà đây vang tiếng,

Ào ào trên sông, kêu hộ ai đây?

Dòng nước dài chảy xuôi, vốn thường yên lặng,

Vì đá lở chắn ngang, mới sinh ra bất bình.

Chưa cuốn bỏ được chướng ngại, nên tức giận,

Chỗ nào có thể chứa thì không tranh giành.

Cái lẽ thái hoà, người quân tử nên ngầm lĩnh hội,

Ánh nước bạc thấu xuống, sáng tận đáy sâu.


Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Nước không tiếng lại thành có tiếng,

Vì đâu ầm ĩ réo liên thanh?

Xuôi chiều sông chảy thường im ắng,

Vấp đá dòng ngăn nổi bất bình.

Cứng chửa đẩy lùi còn ứ giận,

Lượng mà dung nổi chẳng cần tranh.

Ai người hòa khí nên ngầm hiểu,

Thấu suốt lòng trong sắc trắng tinh.