Thuật lại nỗi buồn khi nghỉ lại ở Dinh Cầu


Ngô Thì Nhậm

Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền, (1)

Tích nhân tăng thử hận thiên diên.

Liễu dương (2) cảnh huống tha hương địa,

Phần tử (3)  tình hoài cố quốc thiên.

Khuất chỉ hải môn tam thập lục,

Đài đầu lĩnh kiệu vạn dư thiên.

Mộng tàn huyền hạc (4) mê hoàn tỉnh,

Phù thế phong xà (5) thượng bách niên.


(1) Cửa ải Lam Điền ở Thiểm Tây, Trung Quốc. Thơ Hàn Dũ đời Đường có câu “Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại? Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền” (Mây vắt ngang núi Tần, biết nhà ở đâu? Tuyết đọng ải Lam, ngựa không tiến được). Mở đầu bài thơ này dùng trọn vẹn câu thơ Hàn Dũ.

(2)Kinh thi có câu “Tích ngã vãng hĩ, Dương liễu y y” (Trước đây ta ra đi, Dương liễu xanh rườm rà). Ở đây mượn để chỉ quê hương.

(3) Loại cây hay trồng ở làng quê xưa, sau mượn để chỉ nơi quê hương.

(4)  hạc sống lâu năm trở thành màu đen. Đạo giáo nhận chim hạc là vật tiên. Ở đây chỉ giấc mơ lên cõi tiên.

(5) Đây mượn để nói cõi phù thế thấm thoắt chẳng được là bao.

Tuyết phủ Lam quan ngựa mỏi chân,

Dùng dằng từng để hận tiền nhân.

Tha hương cảnh huống nhìn dương liễu,

Cố quốc tâm tư đoái tử phần.

Khơi lộng tính ra băm sáu cửa,

Núi non ngước thấy vạn hơn lần.

Chiêm bao huyền hạc mê rồi tỉnh,

Thấm thoắt trăm năm với cõi trần.

Bản dịch của Đào Phương Bình


Tuyết phủ kín ải Lam, ngựa không tiến lên được,

Người xưa từng hận phải dùng dằng như vậy.

Ở nơi tha hương, vốn là tình cảnh liễu dương,

Trời cố quốc, là nỗi lòng phần tử.

Bấm đốt ngón tay, đã qua ba mươi sáu cửa biển,

Ngẩng đầu thấy muôn ngàn núi non.

Giấc mơ huyền hạc đã tan, mê rồi lại tỉnh,

Kiếp phù thế như con trăn gió, được trăm năm.