Lý Thường Kiệt

Lý Thường Kiệt (李常傑; 1019–1105) was a Vietnamese general during the Lý Dynasty in Vietnam. He penned what is considered the first Vietnamese declaration of independence and is regarded as a Vietnamese national hero.

Lý Thường Kiệt was born into a Ngô family in Thăng Long, the capital of Đại Việt. His real name was Ngô Tuấn. His father was a low-ranking general. In 1036, he served the Emperor as a captain in cavalry and later lead the imperial guard force. Because of his bravery, intelligence and loyalty, he was granted a royal name, Lý Thường Kiệt, and given an important position in the Court.

In 1075, Wang Anshi, the prime minister, told the Song Dynasty emperor that Đại Việt was being destroyed by Champa, with less than ten thousand soldiers surviving, hence it would be a good occasion to annex Đại Việt. The Song emperor mobilized troops and passed decrees to forbid all the provinces to trade with Đại Việt. Upon hearing the news, the Lý ruler sent Lý Thường Kiệt and Nùng Tôn Đản with more than 100,000 troops to China to carry out a pre-emptive attack against the Song Dynasty troops. In the ensuing 40-day battle near modern-day Nanning, the Đại Việt troops were victorious, capturing the generals of three Song armies.

In 1076, the Songs formed an alliance with Champa and the Khmer Empire and sent troops to invade Đại Việt. Lý Nhân Tông sent, again, Lý Thường Kiệt. Being one of the many great military strategists of Vietnam, Lý Thường Kiệt had placed spikes under the Như Nguyệt River before tricking the Song troops into the deadly trap, killing more than 1,000 Chinese soldiers and forcing the Chinese to retreat.

Those two glorious victories over the Song stopped their attempt to extend south.

After the victory against the Song, he also led a Vietnamese army to invade Champa two times with big victories.

Lý Thường Kiệt is one of the national heroes of Vietnam.

He died in 1105, at the age of 86. 

Source: wiki


Nam Quốc Sơn Hà 

Nam quốc sơn hà, nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư


Dịch nghĩa:

Sông núi nước Nam, vua Nam ở

Rành rành phần số đã định tại sách trời

Cớ sao lũ giặc đến xâm phạm

Chúng bay chờ xem, sẽ chuốc lấy bại vong


南國山河


南國山河南帝居,

截然定分在天書。

如何逆虜來侵犯,

汝等行看取敗虛。


English translation (wiki)

Over Mountains and Rivers of the South, reigns the Emperor of the South

As it stands written forever in the Book of Heaven

How dare those barbarians invade our land?

Your armies, without pity, will be annihilated.


Phạt Tống lộ bố văn / Bài văn lộ bố khi đánh Tống

Thiên sinh chưng dân, quân đức tắc mục. Quân dân chi đạo, vụ tại dưỡng dân. Kim văn, Tống chủ hôn dung, bất tuần thánh phạm. Thính An Thạch tham tà chi kế, tác “thanh miêu”, “trợ dịch” chi khoa. Sử bách tính cao chi đồ địa, nhi tư kỳ phì kỷ chi mưu.

Trời sinh ra dân chúng, Vua hiền ắt hoà mục. Đạo làm chủ dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin kế tham tà của Vương An Thạch, bày những phép "thanh miêu", "trợ dịch", khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thoả cái mưu nuôi mình béo mập.

Cái vạn dân tư phú ư thiên, hốt lạc na yếu li chi độc. Tại thượng cố nghi khả mẫn, tòng tiền thiết mạc tu ngôn.

Bởi tính mệnh muôn dân đều phú bẩm tự trời, thế mà bỗng sa vào cảnh éo le độc hại. Lượng kẻ ở trên cố nhiên phải xót. Những việc từ trước, thôi nói làm gì!

Bản chức phụng quốc vương mệnh, chỉ đạo Bắc hành. Dục thanh yêu nghiệt chi ba đào, hữu phân thổ vô phân dân chi ý; yếu tảo tinh uế chi ô trọc, ca Nghiêu thiên hưởng Thuấn nguyệt chi giai kỳ.

Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh để đến thuở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuấn thăng bình!

Ngã kim xuất binh, cố tương chủng tế. Hịch văn đáo nhật, dụng quảng văn tri. Thiết tự tư lường, mạc hoài chấn bố.

Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm đắm. Hịch văn truyền tới để mọi người cùng nghe. Ai nấy hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi!

Năm 1075, vua quan nhà Tống chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt cùng Tông Đản chủ động đem quân đánh vào hậu cứ quân Tống, chặn đứng cuộc xâm lược. Nhiều đồn luỹ, kho chứa lương thực, khí giới của giặc ở các châu Ung, Khâm, Liêm bị phá huỷ. Trong dịp này, Lý Thường Kiệt làm một số bài lộ bố văn gửi dân các vùng này, nhưng hiện chỉ tìm thấy bài này (do cụ Trần Văn Giáp phát hiện trong một bản Việt điện u linh ở thư viện Viện Khoa học xã hội). 

Nguồn: thivien.net

Thỉnh đế xuất quân thảo Lý Giác / Xin vua cho cầm quân đánh Lý Giác

Đế vị quần thần viết: Tặc Giác kiệt hiệt, trạch tráng giả đương chi. Thường Kiệt cửu tòng nhung trướng, kim lão hỹ: Phục uỷ dĩ quân sự, phi trẫm sở đãi lão thần dã.

Vua bảo bầy tôi rằng: Giặc Giác là tay kiệt hiệt, phải chọn viên tướng mạnh mới đối địch được. Thường Kiệt ở trong quân trướng đã lâu, nay già rồi. Nếu lại đem việc binh giao cho thì đó không phải là cách trẫm đối xử với bậc lão thần.

Thường Kiệt tấu viết: Thần sơ niên vị nhàn tướng lược, chinh Chiêm phạt Tống, hạnh nhi thành công, giai bệ hạ chi linh, tướng thần chi lực dã. Kim mông quốc ân, vị lộc chí thử, nhược toạ thị tặc Giác tuyên kiêu, thần tử bất minh mục hĩ.

Thường Kiệt tâu: Thần trước kia chưa thông thạo mưu lược làm tướng; bình Chiêm, phá Tống may mà thành công, đều nhờ oai linh của bệ hạ và sức lực của các tướng. Nay nhờ ơn nước, được hưởng ngôi cao lộc hậu đến thế, nếu cứ ngồi nhìn tên giặc Giác mặc sức kiêu rông thì thần chết không nhắm mắt được.  (bản dịch của Phạm Tú Châu)