Đề Dương quý phi từ • Đề đền thờ Dương quý phi


Chu Mạnh Trinh

Cố quốc sơn hà, diểu tịch yên,

Khuy khuy từ miếu, trĩ Nam thiên.

Cừu Nguyên di hận, ba đào tráng,

Tồn Tống cô trinh, nhật nguyệt huyền.

Vạn diểu phong dao, hoàn bội hưởng,

Nhất hồ thu tẩy, kính quang viên.

Từ vân phổ tác thiên gia ấm,

Càn Hải linh thanh, hợp tịnh truyền.


題陽貴妃祠


故國山河渺夕煙,

巋巋祠廟峙南天。

仇元遺恨波濤壯,

存宋孤貞日月懸。

萬杪風搖環珮響,

一湖秋洗鏡光圜。

慈雲普作千家廕,

乾海靈聲合並傳。


Dịch nghĩa:

Sông núi quê hương mờ trong khói chiều,

Ngôi miếu thờ bà sừng sững đứng giữa cõi trời Nam.

Nỗi hận bọn giặc Nguyên xưa vương trên ngọn sóng lớn,

Tấm lòng trung thành với triều Tống còn mãi với mặt trời mặt trăng.

Muôn cành cây gió lay động, âm vang như tiếng vòng ngọc va chạm,

Một hồ nước thu tẩy rửa, ánh sáng chiếu dọi như chiếc gương tròn.

Mây lành bay khắp nơi, che chở cho hàng nghìn gia đình,

Đền này cùng với đền Cờn sẽ linh thiêng và truyền lại lâu dài.



Bài thơ này được treo tại gian giữa của cung trung từ của đền Dương quý phi (hay Dương thiên hậu), vợ vua Tống Độ Tông, là thái hậu thời Tống Đoan Tông và Đế Bính. Khi bà đi lánh nạn sau khi nhà Tống bị nhà Nguyên tiêu diệt đã tự vẫn hoặc đắm thuyền, dạt về cửa biển Cờn Hải ở Nghệ An, được dân địa phương chôn cất và lập đền thờ. Dân ven biển miền nam Trung Quốc cũng suy tôn bà là thần hộ mệnh cho những người đi biển, những thương nhân người Hoa đến Hưng Yên (Phố Hiến) buôn bán, lập nghiệp đã cho dựng đền này để thờ bà ở đây. Đây là một trong những di tích lịch sử văn hoá lâu đời vùng đất Phố Hiến xưa và thành phố Hưng Yên nay.


Lạc khoản: “Nhâm Thìn khoa tiến sĩ, Quang lộc tự Thiếu khanh lãnh Hưng Yên tỉnh Án sát sứ Chu Mạnh Trinh bái phụng, tịnh thư. Thành Thái Bính Thân, thu mạnh.” 任辰科進士光祿寺少卿領興安省按察使朱孟楨拜奉並書。成泰丙申秋孟。 (Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1892), giữ chức Quang lộc tự Thiếu khanh, lãnh Án sát sứ tỉnh Hưng Yên là Chu Mạnh Trinh cung kính soạn và viết chữ. Tháng mạnh thu (tháng 7 âm lịch), năm Bính Thân (1896) niên hiệu Thành Thái.)


Nguồn: PGS.TS. Nguyễn Minh Tưởng, “Đền thờ Dương quý phi nhà Tống tại Phố Hiến và bài thơ đề vịnh của Chu Mạnh Trinh,” Tạp chí Hán Nôm số 2(81), 2007