Dạ Trạch tiên gia phú • Phú nhà tiên Dạ Trạch


Chu Mạnh Trinh

Thành Thái Ất Tị niên, Chử tiên giáng bút tự đề:

Hà sơn quá nhãn kỷ thiên niên,

Nhất khúc cao ca tán cửu thiên.

Giang chử nguyệt minh vân ảnh đạm,

Trạch lâm thuỷ trướng lũng sa viên.

Mạn truyền cung lạp tiên gia sự,

Thuỳ thức lâu đài đế tử duyên.

Đáo để nhất trần hoàn bất nhiễm,

Kim ngao giá hải ngụ vân yên.


Dạ trạch tiên gia phú:

Ngọc khuyết thiên cao,

Kim đài địa tịch.


Vân vạn trượng dĩ đằng phi,

Thuỷ thiên trùng nhi ngưng bích.


Biển chu phiếm phiếm, thuỳ tòng phảng bồng lai tiên cảnh chi hư vô,

Dạ Trạch mang mang, ngã độc sáng đế tử nhân duyên chi thuộc tịch.


Tương truyền giang thượng, ngộ hoàng nữ dĩ thành thân,

Thuỳ thức tiên ban, bản châu cung chi mạc nghịch.


Hùng Vương chi thế, thập cửu tương thừa,

Đế viết hữu bang, bỉ xu giả tử.


Nãi tòng tinh nhi hiển diệu, hoàn giá vũ lai Xích Đằng thắng địa chi gian,

Nhân phạt mộc dĩ tài lâu, biệt hướng phong vấn Bạch Xã viên cơ chi chỉ.


Thị xứ tiên gia kê khuyển, hà sự phi thăng,

Ngẫu nhiên đại trạch long xà, tương tranh hộ tí.


Hạnh tài thiên thụ, dược nhị biến hồ phương dân,

Đào tặng vạn gia, ngâm vịnh truyền ư lư lý.


Thời tắc:

Nguyệt minh dạ tĩnh,

Giang khoát thiên không.


Hoặc thừa chu nhi thuỳ điếu,

Hoặc ỷ trượng dĩ nghinh phong.


Huề thủ cao đài, lộng ngọc tiêu nhi phụng giáng,

Thí châm dật các, liên kim tự nhi uyên đồng.


Trần ai phong cảnh thương mang, nan dung cửu trú,

Nhật nguyệt hồ thiên ẩn ước, mỗi động cao tung.


Nãi từ đế khuyết, thướng biểu trần tình.

Toàn hướng thần sơn, phỏng dư cựu lữ.


Xích Tùng thị vũ sư du hí, Thần Nông chi thế phi dao,

Thương Hiệt sinh văn tự khế thư, Bàn Cổ chi phong khả tự.


Hồi đầu giang chử, tam thập niên chi thác tích chuyển không,

Khấu thủ thiên môn, cửu vạn lý chi cao ca hữu tự.


Lâu đài diệc huyễn,

Phần tử không lưu.


Giang ba tịch tịch,

Vân ảnh du du.


Duyệt cổ kim nhi trần tích,

Cảm hoà thử ư giao khâu.


Lai Công chi trúc thành lâm, đức năng triệu dị,

Phan Lệnh chi đào kết thực, ngã diệc hà cầu.


Nhiên nhi Thiệu Bá cam đường bất phạt, tổng nhân tâm chi tư mộ,

Sở dĩ Dương Công nghiễn thủ hưng ngôn, thị lai giả chi trù mâu.


Viết đình, viết các,

Thành ấp, thành đô.


Tiên tung phí diểu,

Vãng sự hoang vu.


Củng lạp lâm gian, Tề đông dã chi vọng ngôn khả tiếu,

Mạc duy giang thượng, Triệu bắc phương chi giai thoại hoàn vô.


Hư dĩ truyền hư,

Tín nan khả tín.


Nhân tư cựu trạch nhi bất vong,

Ngã độc phi linh nhi mặc vận.


Thạch khởi năng ngôn chi vật, chuyển dã hà tằng,

Cối truyền tả nữu chi văn, thị thuỳ mậu dẫn.


Toại sử thiên thu vận sự, di tích nan bằng,

Thức khán nhất phiến nhàn vân, tiên tung bất mẫn.


Chư quân độc thư, nghi tế tâm phẫu tích, vật khả nhân vân diệc vân.

Kim ngã dữ chư quân hữu duyên, đặc phụ kê bút giáng đàn, tác thử “Dạ Trạch tiên gia phú”, dĩ phá thiên cổ chi hoặc.

Khả huyền vu chính trung điện ngoại.


Năm Ất Tị đời vua Thành Thái, Chử tiên giáng bút tự đề:

Sông núi này, mắt ta ngắm nhìn đã mấy nghìn năm,

Một khúc ca cao vút, lan rộng tới chín tầng trời.

Trăng sáng chiếu qua mây, bóng nhạt nhoà bên bến sông,

Sóng nước vỗ đập vào bãi cát vùng đất Dạ Trạch.

Câu chuyện thần tiên về chiếc gậy trúc, nón gồi chẳng qua là ngoa truyền,

Ai hay được chuyện tình duyên của con gái vua chốn đền đài?

Dù cho sống nơi trần gian, nhưng cuối cùng chẳng nhiễm bụi trần,

Mọi chuyện rồi cũng theo rùa vàng ra biển hay gửi trong đám mây trôi.


Phú về nhà tiên đầm Dạ Trạch:

Ngọc khuyết thiên cao,

Kim đài rộng mở.


Mây muôn trượng bay cao,

Nước ngàn trùng xanh biếc.


Thuyền một lá lênh đênh, ai hỏi chốn Bồng Lai cảnh tiên hư ảo?

Dạ Trạch đầm nước mênh mang, ta riêng tạo chốn nhân duyên đế tử.


Tương truyền: May gặp hoàng nữ trên sông, rồi bỗng nên duyên phận;

Biết chăng: Vốn nòi tiên sánh cùng cung ngọc, chẳng có gì sai.


Hùng Vương dựng nghiệp, mười chín đời truyền;

Đế thất lưu truyền, nước có mỹ nữ.


Theo sao mờ hiển hiện, chớp nhoáng như xe bay, mây lướt mưa sa ở đất Xích Đằng thắng địa;

Rồi nhân thế phạt mộc dựng lầu cao, gây riêng một chốn, thử hỏi nào đâu Bạch Xã nền xưa.


Đây xứ: Tiên cung chó gà kêu việc xẩy đột nhiên;

Bỗng nhiên: Đầm lớn rồng rắn quấn quýt sao mà lạ.


Trồng hạnh nghìn cây, thuốc hay giúp khắp thôn dân;

Gây đào vạn cửa, lời ca vang cùng làng xóm.


Những khi:

Trăng sáng, đêm thanh,

Trời cao sông rộng.


Lúc cưỡi thuyền buông câu;

Lúc tựa song đón gió.


Dan tay gác tía, thổi sáo ngọc mà chim phượng đến;

Cài trâm bên cửa biếc, gắn chữ vàng mà uyên ương theo.


Trần ai phong cảnh mênh mang, ở lâu sao đặng;

Nhật nguyệt giữa trời lấp lánh, thấy động dấu tiên.


Bèn từ cung khuyết, dâng biểu trần tình;

Lại đến thần sơn, tìm hỏi bạn cũ.


Cùng Xích Tùng tiên du hí, đời Thần Nông ngày ấy chẳng xa;

Chữ Thương Hiệt thư khế rành rành, phong tục Bàn Cổ đã có đầu mối.


Bốn mặt nước bến sông, ba mươi năm thác tích, thành không;

Hai tay chắp cửu trùng, ngàn muôn dặm ngợi ca từ đó.


Lâu đài nào thấy;

Gậy cũ còn đâu!


Sóng nước mịt mờ;

Mây mù thăm thẳm.


Xem nào cổ kim dấu tích;

Nhớ tới ngoài nội lúa ngô.


Trúc Lai Công nay đã thành rừng, đức thường gây dựng;

Đào Phan Lệnh vốn đà kết trái, ta cũng chẳng cầu.


Thế mà: Như Thiệu Bá không phạt cam đường, cũng là do lòng người tư mộ;

Sở dĩ: Dương Công miệt mài bên nghiên mực, chỉ mong cho hậu thế đẹp tươi.


Nào đền, nào gác;

Nên xóm, nên thành.


Gót tiên lãng đãng;

Sự cũ hoang vu.


Khá cười chuyện cũ hoang đường, gậy trúc nón gồi, đồn khắp hang cùng ngõ hẻm;

Lại hay giai thoại vu vơ, màn gấm bên sông, lan xa ngoài cõi bắc phương.


Đồn lại thêm đồn;

Tin không khó biết.


Đầm xưa, người nhớ mãi chẳng quên;

Ta vẫn riêng cưỡi mây phù vận.


Đá có nói gì đâu mà vật chuyển dời, sao thế?

Sao truyền cội gốc chuyện xa xưa ngoa vậy, vì ai?


Khiến cho nghìn thu chuyện đẹp, tích cũ khó tìm bằng cứ?

Hãy nhìn một áng mây trôi, dấu tiên như còn tỏ.


Các người đọc sách, phải để tâm xem kỹ, chớ thấy người xưa nói sao mình cũng nói vậy.

Nay ta với các người có duyên, nên đặc cách giáng bút, làm bài “Phú nhà tiên Dạ Trạch” này, để giải toả những điều mê hoặc từ ngàn xưa.

Nên treo ở ngoài chính giữa điện.

_____________________________

Theo truyền thuyết, Chử Đồng Tử, sinh ra và lớn lên trong một gia đình chài lưới nghèo khổ, sau gặp và lấy công chúa Tiên Dung. Vì là tiên, nên Chử Đồng Tử đã về trời lúc 30 tuổi cùng với vợ. Nơi hoá thân tạo thành vùng đầm lầy, nay mang tên Dạ Trạch.


Bài Dạ Trạch Tiên gia phú vốn khắc tại đền Đa Hoà, thuộc tổng Mễ Sở, huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (nay là thôn Đa Hoà, xã Bình Minh, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên). Đền Đa Hoà là ngôi đền chính thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung công chúa. Năm Ất Tị (1905) đời vua Thành Thái, một đàn cầu tiên được tổ chức tại đền Đa Hoà. Những người hầu dưới đàn có Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Tấn Cảnh, Lê Chuyên. Bài phú này được coi là bài giáng bút của Chử Đạo tổ (tức Chử Đồng Tử). Chu Mạnh Trinh, người xã Phú Thị, đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1892), từng giữ chức Quang lộc Tự khanh, kính chép và khắc bài phú này ở đền Đa Hoà. Bài phú này về hình thức và nội dung đều có vẻ tải hoa như bài Thanh Tâm tài nhân phú do Chu Mạnh Trinh làm trong hội Tao đàn tỉnh Hưng Yên cùng năm 1905, nên nhiều khả năng cũng do chính Chu Mạnh Trinh sáng tác.


Năm Quý Sửu (1913) đời vua Duy Tân, các cụ phụ lão làng Quan Xuyên (xã Thành Công, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên) đã khắc lại bài phú này từ đền Đa Hoà đưa về treo tại đình làng này. Tháng giêng năm Đinh Mão (1927), một người trong làng Bình Phú (huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên) là Hàn lâm viện thị độc, sao lại, cung tiến đình làng này.


Lạc khoản bản chép ở làng Quan Xuyên: “Duy Tân Quý Sửu xuân; Cung lục Đa Hoà từ; Kê văn; Phụng thuyên bái tiến” 維新癸丑春;恭錄多禾祠;乩文;奉鐫拜進 (Xuân năm Quý Sửu [1913] đời vua Duy Tân; Kính cẩn chép từ đền Đa Hoà; Văn giáng bút; Kính sao, bái tiến).