Lê Thương

Lê Thương (1914-1996) tên thật là Ngô Đình Hộ, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914, tại phố Hàm Long, Hà Nội, trong một gia đình bố mẹ là những nghệ sĩ cổ nhạc. Một bài viết khác cho rằng Lê Thương sinh tại Nam Định. Chi tiết về cuộc đời ông rất ít được nhắc tới. Theo hồi ký của Phạm Duy, Lê Thương sinh năm 1913 và là một thầy tu nhà dòng hoàn tục.


Năm 1935, Lê Thương hành nghề dạy học ở Hà Nội, sau đó ông chuyển về dạy ở Trường Trung học phổ thông Ngô Quyền, Hải Phòng. Lê Thương cùng Hoàng Quý, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ), Phạm Ngữ, Canh Thân tụ họp thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ để bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho những buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng, hay theo ban kịch đi hát tại Hà Nội, Vĩnh Yên. Họ cũng là những hướng đạo sinh và hay tổ chức đi cắm trại hay đi hát tại các tỉnh lân cận bằng xe đạp.


Năm 1941, Lê Thương vào miền Nam. Ban đầu ông ở An Hóa, tỉnh Bến Tre, đến năm 1943 thì chuyển về sống tại Sài Gòn. Năm 1945, ông tham gia kháng chiến chống Pháp ở Bình Đài (Bến Tre) rồi bị quân Pháp bắt giữ. Năm 1948, ông được trao trả tự do, nhưng do đã mất liên lạc với tổ chức nên quyết định trở lại Sài Gòn, không còn liên hệ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nữa. Từ năm 1954 đến 1975, ông công tác ở Bộ Quốc gia Giáo dục của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.[1]


Tuy là một nhạc sĩ tài danh, nhưng nghề chính của ông là dạy học. Ông từng là giáo sư Sử Địa, có một thời gian giảng dạy tại một số trường trung học tư ở Sài Gòn. Ông cũng từng là giáo sư Pháp ngữ tại trường trung học Pétrus - Ký vào thập niên 60, một trong những học trò của ông là nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn. Lê Thương cũng từng làm công chức ở Trung tâm Học liệu, bộ Quốc gia Giáo dục và là giảng viên Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ. 


Lê Thương là một trong những nhạc sĩ Việt Nam tiên phong viết tân nhạc với bài "Bản đàn xuân". Ngoài "Bản đàn xuân", trong thời kỳ ở miền Bắc, Lê Thương còn sáng tác những tác phẩm khác như "Tiếng đàn đêm khuya", "Một ngày xanh", "Trên sông Dương Tử", "Thu trên đảo Kinh Châu"...


Từ khi vào miền Nam năm 1941, Lê Thương phổ thơ nhiều bài như "Lời kỹ nữ" (thơ Xuân Diệu), "Lời vũ nữ" (thơ Nguyễn Hoàng Tư), "Bông hoa rừng" (thơ Thế Lữ), "Tiếng thùy dương" (tức "Ngậm ngùi" thơ Huy Cận) và "Tiếng thu" (thơ Lưu Trọng Lư)...


Lê Thương là nhạc sĩ tiên phong của nhiều thể loại âm nhạc. Thời kỳ kháng chiến, ông có soạn một ca khúc rất nổi tiếng "Lòng mẹ Việt Nam" hay "Bà Tư bán hàng" nói về một bà mẹ thành phố có các con tham gia kháng chiến. Và bài hát đó là một trong những lý do Lê Thương bị Pháp bắt giam vào khám Catinat cùng Phạm Duy và Trần Văn Trạch năm 1951.


Lê Thương thuộc những người đầu tiên viết truyện ca và đã để lại những bản truyện ca hay nhất như "Nàng Hà Tiên", "Lịch sử loài người", "Hoa thủy tiên"... Đặc biệt hơn cả là bộ ba "Hòn vọng phu", được xem như một trong những tác phẩm nổi tiếng của tân nhạc Việt Nam. Văn Cao cũng từng thừa nhận ảnh hưởng bởi Lê Thương với phong cách âm nhạc bắt nguồn từ âm nhạc cổ truyền Việt Nam. 

Ngoài âm nhạc, Lê Thương còn gia nhập vào ban kịch của Thế Lữ vào những năm thập niên 1930, và ban kịch Sầm Giang của Trần Văn Trạch khi ông sống ở Sài Gòn. Lê Thương đã sáng tác ca khúc cho nhiều kịch bản, và viết nhạc phim cho hãng phim Mỹ Vân.


Lê Thương lập gia đình cùng một phụ nữ học ở Pháp về và họ có chín người con. Ông cũng có hai người tình, người tình đầu là một cô hát ả đào nổi tiếng ở Hà Nội. Người thứ hai là một vũ nữ tại Chợ Vườn Chuối Sài Gòn.


Sau 1975, ông không tham gia hoạt động văn nghệ. Vào thập niên 1990, ông bị mất hẳn trí nhớ và qua đời ngày 17 tháng 9 năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh. 


Nguồn: wikipedia