Phiếm Luận về Truyện Kiều


Vương Thanh

1.  Thúy Kiều bao nhiêu tuổi khi gặp Kim Trọng? Đề tài này cũng được nhiều vị tiền bối như Tản Đà, Lê Văn Hòe, v.v. và các thi văn sĩ bàn tán trên mạng. Mình cũng xin góp chút ý kiến. Nhưng trước hết, chúng ta chỉ nên dựa theo truyện Kiều, chứ cũng không cần tra xét nhân vật Kiều trong lịch sử, hay tìm hiểu từ truyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. Đây là tác phẩm Kiều của Việt-Nam và chúng ta muốn hiểu ý của thi hào Nguyễn Du là thế nào. Đa số học giả dựa theo câu thơ này để kết luận:  

“Phong lưu rất mực hồng quần

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”.

Tuổi cập kê là tuổi cài trâm, theo câu thơ ““Nữ tử thập hựu ngũ niên nhi kê” “ trong Kinh Lễ là 15 tuổi. Cho nên nhiều người cho rằng từ câu thơ này mà nói nàng Kiều sắp 15 tuổi, mình hãy cho là 15 đi cho chẵn.  Chính vì vậy rất nhiều điểm trong truyện Kiều nghe không thông suốt. Kiều phải lớn hơn Vương Quan ít nhất 3 tuổi. Nếu ba năm sinh ba người thì Vương Ông cũng là quá hăng đi, cho nên để hợp tình hợp lý chút, Kiều nên lớn hơn Vương Quan ít nhất 3 tuổi chứ không phải là 2. Vậy giả thuyết Kiều 15, Thúy Vân 14, và Vương Quan 12.  Kim Trọng một thân một mình đi hộ tang đất Liêu Dương, lại nghĩ đến “chày sương chưa nện cầu Lam”, “xem trong âu yếm có phần lả lơi”, để Kiều từ chối và nhắc truyện Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh, thì chàng Kim nên tối thiểu là 17 tuổi trở lên. Vương Quan dù là thần đồng đi nữa với tuổi 12 thì quá nhỏ để kết giao thân tình với chàng Kim. 


Nếu Thúy Kiều chỉ mới 15 tuổi, thì tuổi của bé Quan nghe không thông tí nào, mới 12 làm sao đã biết rành chuyện phong tình của Đạm Tiên. Xét theo lối cư xử của Thúy Kiều, đi tìm chàng Kim ban đêm, “vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa” , và so chàng Kim với hoa đẹp ( hoa đẹp không phân giới tính nam/nữ) , và quyết định bán mình cứu gia đình, thì nàng Kiều cũng nên xấp xỉ 17 tuổi trở lên và Vương Quan khoảng 14, như vậy thì kết giao với chàng Kim mới nghe thông, và có bị “đám ruồi xanh” đeo gông vào cổ cũng không đến nỗi quá mất tính người. Chả lẽ bọn côn an lại đeo gông vào cổ đứa bé nít mới 11,12 tuổi, treo lên cột nhà ư?.


Trở lại câu thơ trên: “Xuân xanh xấp xỉ, (đã) tới tuần cập kê”. Thơ Kiều của Nguyễn Du viết bằng chữ Nôm, giống Hán tự mà rắc rối hơn, cũng không có phẩy,  chấm than, chấm hỏi, v.v. Nếu chúng ta thêm dấu phẩy vào sau chữ xấp xỉ, thì có thể hiểu là 2 nàng Kiều trạc tuổi gần bằng nhau và cũng “đã” tới tuần cập kê. Thiếu chữ “đã” cho người đọc thơ tự thêm vào. Chúng ta hãy xem những câu thơ này : 

“2255. Nàng rằng: “Trước đã hẹn lời

Dẫu trong nguy hiểm (đâu) dám rời ước xưa.”     * Người đọc nên tự thêm chữ “đâu” vào cho đúng ý nghĩa. 


“Trăng thề còn đó trơ trơ

(Đâu)  Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng  


Vì là thơ nên ý từ cô đọng, người đọc thơ nên hiểu tâm ý tác giả, ý tại ngôn ngoại, và tự nhiên thêm chữ vào cho hợp lý, chẳng thể đòi hỏi văn phạm như trong văn xuôi. Cho nên, câu thơ trên “ Xuân xanh xấp xỉ, (đã) tới tuần cập kê”. Thì hai nàng Kiều xấp xỉ hơn kém 1 tuổi và đă qua tuổi cập kê. Như vậy thì câu lục bát tiếp theo nghe lại càng hợp lý. “Êm đềm trướng rủ màn che / Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”    Nếu nhỏ hơn tuổi cập kê thì tất nhiên là nên lờ ong bướm rồi, không đáng đề cập tới. Mười sáu, 17 tuổi, vì con nhà gia giáo, lờ ong bướm thì mới làm cho đoạn thơ đó có ý nghĩa. Vậy, Thúy Kiều và Thúy Vân đã qua tuổi cập kê, thì Kiều nên khoảng 17, Vân 15, 16, Quan 14, thì tính chất, hành xử của những nhân vật trong truyện Kiều sẽ trở nên hợp tình hợp lý.  Chàng Kim phải lớn hơn Kiều vậy thì khoảng 18, 19 là vừa.  


2.  Truyện Kiều của Nguyễn Du dựa cốt truyện “Kim, Vân, Kiều” của Thanh Tâm Tài Nhân (TTTN). Cốt truyện giống nhau khoảng 95 phần trăm. Cũng thuyết tài mệnh đối kỵ, cũng đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ. Truyện của TTTN tả tỉ mỉ về sự kiện vu oan của thằng bán tơ, và nói chi tiết về “vành ngoài bảy món, vành trong tám nghề” và cho nàng Kiều sổ thơ rất nhiều, mình đọc thấy cũng thường thường, không gì đặc biệt. Văn xuôi cũng không quá đặc sắc, có phần rất thô tục khi tả vào chi tiết thủ đoạn của Tú Bà dạy Kiều, còn nàng Kiều hay tác giả TTTN thì chút chút là huênh hoang sổ thơ cho thiên hạ thấy tài thơ của mình. Những chi tiết như thế nhà thơ Nguyễn Du của chúng ta chỉ lướt qua, rồi làm ra những câu thơ kể chuyện tuyệt vời để diễn tả tâm trạng, ý tưởng, đối thoại của nhân vật.  Có phần khác biệt chính yếu giữa hai truyện là ở chỗ trả thù của nàng Kiều và khá nhiều chi tiết về sự thuyết phục Từ Hải đầu hàng. Hình phạt tả ở trong truyện của TTTN vô cùng dã man, nghe đến rợn người, xem như tứ mã phân thây, đốt sống cũng không bằng, và nàng Kiều cũng không có tha cho Hoạn Thư. Sau khi được chàng Thúc nài nỉ, thì Kiều mới chấp thuận tha chết cho Hoạn Thư, nhưng vẫn phạt tội sống - cho treo lên đánh đòn thịt da tan nát, thoi thóp rồi mới cho thả về. Mẹ của Hoạn Thư thì được tha ngay sau khi bà quản gia nhà họ Hoạn từng giúp đỡ Kiều nhiều xin chịu tội giùm. Nhưng Mẹ Hoạn Thư vì sợ quá, về nhà rồi chết. Cảnh tra tấn, trừng trị bọn Mã Giám Sinh, Bạc Hạnh, Bạc Bà, Sở Khanh, mỗi người một vẻ, rất tàn khốc, nghe cũng rợn người. Đoạn này Nguyễn Du chỉ nói sơ qua. 


3.  Nhắc đến trừng phạt Hoạn Thư, Kiều của VN hiền lành, độ lượng tha ngay :  

Khen cho: “Thật đã nên rằng

Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.”

2375. Tha ra thì cũng may đời

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.

Đã lòng tri quá thì nên   *

Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay.


Vài bản dịch khác cho rằng Kiều nói câu « Tha ra thì cũng may đời / Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen » với Hoạn Thư. Tôi thì cho rằng đó là ý nghĩ trong lòng Kiều mà thôi. Vì có Từ Hải ở đó, nên Kiều tuy phải tỏ vẻ độ lượng, nhưng cũng không có lý do gì mà phải báo cáo cho Hoạn Thư biết là tôi không đánh cô vì sợ mang tiếng là nhỏ nhen. Kiều có quá đủ lý do để đánh Hoạn Thư vì HT cho người bắt cóc Kiều, đánh đập Kiều, và còn hành hạ tâm lý Kiều nữa khi bắt Kiều hầu hạ ở bàn tiệc «Bắt khoan bắt nhặt đến lời / Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay. » 

Kiều muốn độ lượng thì cứ độ lượng há phải nói nguyên nhân sâu xa trong đó cho Hoạn Thư biết. Thiệt ra, một phần lớn Hoạn Thư được tha không bị chút trày da gì là do có chàng Từ ở đó. 

Mỗi bản dịch truyện Kiều, dịch giả cũng có những chỗ nhận xét khác nhau. Ai nói đúng ý thi hào Nguyễn Du thì cũng khó nói. Hơn nữa, quan điểm của những dịch giả cũng không phải là bất biến, không thay đổi cho nên bàn luận ai nói đúng, sai, hợp lý hơn không ý nghĩa gì.  Đây chỉ là nêu lên một ví dụ cho những nhận xét khác nhau trong những bản dịch truyện Kiều. Xin để mỗi độc giả có nhận định riêng của mình.  


4. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ nói rất sơ sài về thằng bán tơ. Thằng bán tơ thuộc băng đảng bọn cướp, vì bọn cướp căm tức chú của Kiều, nên khi bị bắt, họ vu oan cho gia đình Kiều. Cần phải có 300 lạng mới lo lót xong chuyện. 100 lạng đút lót quan lớn, 100 lạng cho bọn cướp đổi lời khai, còn 100 lạng cho bọn côn an, đám ruồi xanh đó. 


5. Kiều đánh loại đàn gì ?  Nói là hồ cầm nhưng hồ cầm là loại đàn gì. Cũng là một loại đàn tỳ bà, cũng 4 dây, khác đàn tỳ bà thông thường 1 chút. Còn chính xác khác như thế nào thì mình cũng không nhớ, không thấy gì quan trọng. 

6. Nàng Kiều trong truyện văn xuôi của TTTN sổ thơ rất nhiều.  Đây là một phần bản dịch bài thơ Kiều khi tái hội với Kim Trọng và ngỏ lời từ chối chuyện phòng the, làm 10 bài thơ đưa chàng Kim đọc, mình thấy cũng không có gì đặc biệt. So với văn chương của thi hào Nguyễn Du thì thiệt là cách xa một trời một vực. Mượn truyện dịch một chút, để 6 bài cho độc giả xem cho biết.

 

bài 1.Nhớ xưa gặp quân tử,

Không biết là có sống.

Mới biết nhi nữ tình,

Tức là nhi nữ tính.


bài 2. Chiều chàng trăm việc thuận,

Chỉ tránh sự lần khân.

Sợ đem tình yêu dấu,

Lạc vào đường tà dâm.

 

bài 6. Phong trần đã trải nhiều,

Nào phải thích cường bạo.

Nếu không tạm theo chiều,

Thù sâu sao thể báo?


bài 8. Lòng người nào ai biết?

Người chết, thật vì thiếp.

Vì thế, sông Tiền Đường,

Một chết cho vẹn tiết.

 

bài 9. Bạc mệnh tự cam tâm,

Đoạn trường nợ trả hết.

Đa tạ Phật từ bi,

Thân này chưa phải chết.


bài 10. Ngày nay gặp lại chàng,

Không biết là có chết.

Xin chàng sớm định tình,

Trước sau cho giống hệt.


 7. Giá Kiều bán mình là đơn vị lượng vàng hay lượng bạc ? Trong Truyện Kiều chỉ nói Kiều bán mình ngoài 400 lạng, nhưng không nói rõ là lạng vàng hay lạng bạc. Đơn vị trao đổi tiền bạc thời đó là dùng lượng bạc. Nhưng ý của Nguyễn Du là lượng vàng hay lượng bạc ? Lượng bạc thì làm mất giá nàng Kiều của Việt Nam ta quá. Một lượng vàng cũng hơn cả trăm lượng bạc thì phải. Trong thơ Kiều có mấy câu như sau : 

«  Cò kè bớt một thêm hai / Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm »

« Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao »,  « Mối rằng : Đáng giá nghìn vàng »

« Thân ngàn vàng để ô danh má hồng », « Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân! »

« Tiếc thay lưu lạc giang hồ / Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài!”


Từ nàng Kiều đáng giá nghìn vàng hay là ngụ ý vô giá, mà nếu bán mình chỉ có vài trăm lượng bạc, thì quả thật quá rẻ tiền. Xem những câu thơ trên, hẳn là nàng Kiều nên được mua với giá lượng vàng thì chắc hợp ý với Nguyễn Du hơn. Dù sao cũng là truyện thơ « mua vui cũng được một vài trống canh »,  tác giả hẳn cũng không quan tâm tình tiết phải đối chiếu với hiện thực ngoài đời.  


vương thanh, 2022 
Trích từ tập thơ "The Tale of Kiều by Nguyễn Du", translated by Vương Thanh

Cảm nghĩ của nhạc sĩ Cao Phong về những tùy bút và bình luận của Vương Thanh


Đời tôi chưa hề thấy có nhà phê bình văn thơ, văn học nghệ thuật VN nào mà sâu sắc, có những phân tích rõ ràng, kiến thức uyên bác về văn thi học sử, ngôn ngữ hán nôm, của VN và TQ như Vương Thanh.

Điều quý nhất là VT còn trẻ, và khi đã thắc mắc về việc gì, thì sẵn sàng bỏ hết thời gian ra để nghiên cứu, và có một sự tự tin đáng kính trọng là dám vượt qua ''bức tường lễ giáo'' của các bậc cha chú, đàn anh đi trước, là dám lên tiếng, chứng minh những ''điều sai lệch, nghịch lý hay chưa đúng'' trong các tác phẩm văn học nghệ thuật của VN và của thế giới nói chung.

Vì rất nhiều nguyên nhân, có thể họ đã không để ý, không biết, hay đã biết, nhưng không dám nói động đến các tên tuổi lớn như Nguyễn Du, Bùi Giáng....v...v...

Dù có tiếng bấc, tiếng chì, đàm tiếu về một nhà phê bình trẻ, một tên hậu bối mà dám ngang ngược đụng đến những tượng đài đã từng được vào chương trình giáo dục bậc Trung học của VN từ thời Đệ nhất VNCH, nhưng Vương Thanh vẫn tiếp tục con đường đúng đắn của mình, bỏ ngoài tai những lời ''dèm pha đầy tự cao ngoan cố''.

Cám ơn Vương Thanh đã như Galileo Galilei, dám lên tiếng vì sự thật, và đã cống hiến cho đời những tư liệu quý giá, trung thực cho kho tàng văn chương của dân tộc Việt Nam mình.


Cao Phong 

11.2023