Ký kết hợp đồng tín dụng là quy trình kỹ thuật, nghiệp vụ và pháp lý do các bên thực hiện theo trình tự pháp luật. Vậy điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng là gì?
Xem thêm: Hướng Dẫn Vay Theo Hợp Đồng Tín Dụng Cũ Fe Credit 2022
Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là hành vi pháp lý do một bên đưa ra cho bên kia dưới hình thức văn bản chính thức, nội dung thể hiện thiện chí giao kết hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp thông thường, các bên dự định ký kết hợp đồng tín dụng là tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn, chủ yếu là đơn vay vốn kèm theo hồ sơ trình độ của người đi vay, khả năng hoặc phương án kinh tế của người đi vay.
Xem thêm: Điều Khoản Vay Theo Hợp Đồng Cũ HomeCredit Là Gì?
Sử dụng vốn vay. Các tài liệu này được người vay gửi đến các cơ quan tín dụng để xem xét, thẩm định và được coi là bằng chứng của hợp đồng tín dụng. Thực tiễn ký kết hợp đồng tín dụng ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy có nhiều trường hợp chủ thể tự nguyện đề nghị ký hợp đồng tín dụng là tổ chức tín dụng chứ không phải là khách hàng. Một số tổ chức tín dụng tích cực triển khai phương thức này nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và mở rộng thị trường tín dụng. Các tổ chức tín dụng đầu tiên lựa chọn phương thức này là ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Trong trường hợp này, văn bản đề nghị là lời mời của tổ chức tín dụng đối với tổ chức, cá nhân có năng lực tài chính mạnh, uy tín trên thị trường, có nhu cầu vay vốn thường xuyên (gọi là khách hàng tiềm năng) mà tổ chức tín dụng chọn làm đối tác. Trong thư mời, bên đề nghị (tổ chức tín dụng) thường đưa ra những điều kiện chung nhất và những điều khoản cụ thể để bên kia xem xét và chấp nhận. Tuy nhiên, do thư mời không nhất thiết phải là dự thảo hợp đồng (vì các luật sư đã chỉ ra rằng thư mời không phải là dự thảo hợp đồng để tránh rủi ro pháp lý cho bên mình) nên trên thực tế, nếu bên nhận được thư mời đã chấp nhận toàn bộ. nội dung của thư mời, Không có nghĩa là hợp đồng tín dụng đã được xác lập.
Xem thêm: Những Vấn Đề Cần Chú Ý Về Lãi Suất Trong Hợp Đồng Tín Dụng
Đánh giá thực trạng tín dụng là toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ pháp lý do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định khách hàng vay có đáp ứng các điều kiện vay hay không, trên cơ sở này quyết định có đăng ký vay hay không. Trong các giao dịch ngân hàng thực tế, việc thẩm định hồ sơ tín dụng thường được thực hiện bởi các chuyên gia từ các cơ quan tín dụng và kết thúc bằng việc chuẩn bị báo cáo thẩm định hồ sơ tín dụng. Báo cáo này được trình lên người quản lý có thẩm quyền của tổ chức tín dụng để quyết định cho vay. Do khâu này có tầm quan trọng đặc biệt trong toàn bộ quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật yêu cầu người cho vay là tổ chức tín dụng phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc đảm bảo tính độc lập, phân công lao động rõ ràng, trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới và một số trách nhiệm giữa giai đoạn đánh giá và giai đoạn ra quyết định cho vay. Sau khi đánh giá tình trạng tín dụng của khách hàng, người cho vay có quyền quyết định chấp nhận hoặc từ chối khoản vay dựa trên kết quả đánh giá, phân tích và điều tra tín dụng của khách hàng. Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo bằng văn bản cho khách hàng và nêu rõ lý do từ chối. Khách hàng từ chối khoản vay mà không có lý do chính đáng có thể trở thành lý do để khách hàng có hành vi đối chất với tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là hành vi pháp lý do bên được chào hàng (thường là tổ chức tín dụng) thực hiện dưới hình thức văn bản chính thức. Gửi yêu cầu hợp đồng), nội dung thể hiện sự đồng ý ký kết hợp đồng tín dụng. Về lý thuyết, một bên chấp nhận vô điều kiện đề nghị hợp đồng bằng văn bản của bên kia, và nếu các quy định cơ bản của đề nghị được đáp ứng trong đề nghị, thì một hợp đồng có thể nảy sinh giữa họ. Loại hợp đồng mà họ muốn ký kết. Tuy nhiên, do bản chất hợp đồng tín dụng có tác động sâu rộng đến hệ thống tín dụng và nền kinh tế của một quốc gia nên các luật gia cho rằng hợp đồng tín dụng phải được ký kết hết sức thận trọng và phải được xem xét, cân nhắc, tính toán một cách thận trọng và kỹ lưỡng. Khái niệm này là cơ sở để pháp luật đưa ra những quy định riêng về thủ tục giao kết hợp đồng tín dụng, theo đó, hành vi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị là một tuyên bố thỏa thuận. Việc ký kết hợp đồng không thay thế cho việc ký kết hợp đồng chính thức giữa các bên. Điều này có nghĩa là việc ký kết hợp đồng tín dụng chỉ hoàn thành sau khi hai bên trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng và đại diện có thẩm quyền của hai bên trực tiếp ký kết hợp đồng tín dụng.
Xem thêm: Mục Đích, Đối Tượng Của Hợp Đồng Tín Dụng
Xem thêm: Trách Nhiệm Pháp Lý Do Vi Phạm Hợp Đồng Tín Dụng
- Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: Đây là giai đoạn cuối cùng và trọng tâm của quá trình ký kết hợp đồng tín dụng. Ở giai đoạn này, các bên gặp nhau để thương lượng các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Giai đoạn này coi như kết thúc khi đại diện của các bên chính thức ký kết các văn bản hợp đồng tín dụng.
Hiệu lực của hợp đồng tín dụng có thể được xem xét trên ba khía cạnh sau:
Theo quy định chung tại Điều 117 BLDS năm 2015 về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì hợp đồng tín dụng là một loại giao dịch dân sự cụ thể chỉ có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực dân sự: nếu chủ thể của hợp đồng tín dụng là tổ chức thì người đại diện cho tổ chức cũng phải có năng lực pháp luật và năng lực dân sự.
- Có thỏa thuận ý chí trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tự nguyện giữa các bên đối với lời hứa: khi có những khiếm khuyết như nhầm lẫn thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng tín dụng coi như không có sự thỏa thuận và tự nguyện. ; Về nguyên tắc, không phải mọi sai lầm, lừa dối, gian lận hoặc ép buộc, ép buộc của một bên đối với bên kia sẽ làm cho hợp đồng tín dụng vô hiệu, nhưng những khiếm khuyết này phải có tác động quyết định đến sự tự nguyện giao kết hợp đồng của các bên mới được coi là sự kiện pháp lý làm vô hiệu hợp đồng tín dụng.
- Mục đích và nội dung của hợp đồng tín dụng không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội: tính hợp pháp của mục đích khi tham gia giao dịch thể hiện ở mục đích vay vốn của bên, nội dung hợp đồng phải ghi rõ hợp đồng. và những mục đích này không vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội. Tính hợp pháp của nội dung hợp đồng tín dụng thể hiện ở chỗ, các điều khoản của hợp đồng tín dụng không vi phạm các quy định cấm của pháp luật, không vi phạm đạo đức xã hội.
Đặc biệt đối với hình thức hợp đồng tín dụng, việc ký kết hợp đồng phải theo hình thức do Luật Ngân hàng quy định. Đối với hợp đồng tín dụng, do có rủi ro lớn hơn đến lợi ích của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng này, nên Luật Ngân hàng quy định hình thức của hợp đồng tín dụng là một trong các điều kiện. Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (kèm theo Văn bản hợp nhất số 20 / VBHN-NHNN ngày 22/5/2014). Giấy tờ giao dịch hợp lệ có giá trị chứng minh nội dung cam kết của các bên.
Thời điểm hợp đồng tín dụng có hiệu lực là thời điểm bắt đầu phát sinh quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các bên trong hợp đồng tín dụng. Trên thực tế, pháp luật mỗi nước có những quy định rất khác nhau về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tín dụng, tùy thuộc vào việc nhà lập pháp đồng ý với ý kiến xem hợp đồng tín dụng là hợp đồng thực tế hay hợp đồng.
Ví dụ, ở Cộng hòa Pháp, do các nhà lập pháp coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng thực tế nên họ coi thời điểm hợp đồng tín dụng có hiệu lực là thời điểm bên cho vay chuyển số tiền. cho người vay. Theo quan điểm này, việc bên cho vay chuyển vốn từ bên cho vay sang bên vay không phải là nghĩa vụ pháp lý trong hợp đồng tín dụng mà bên cho vay phải thực hiện. Do đó, nếu người cho vay hứa cho vay nhưng không giao tiền vay (với tư cách là chủ thể của hợp đồng) thì hợp đồng tiện ích chưa được hình thành và người hứa cho vay sẽ không phải chịu bất kỳ chế tài nào.
Ở Việt Nam, do nhà lập pháp coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng thỏa thuận nên pháp luật quy định thời điểm hợp đồng tín dụng có hiệu lực là thời điểm các bên hoàn toàn đồng ý về các điều kiện và điều khoản của hợp đồng tín dụng. Hợp đồng và bên cuối cùng đã ký và đóng dấu vào văn bản hợp đồng tín dụng (nếu có). Theo quy định này, việc chuyển (trả) tiền vay là nghĩa vụ hợp đồng của bên cho vay, nếu bên vay không thực hiện nghĩa vụ này mà gây thiệt hại về kinh tế cho bên vay thì bên vay sẽ phải chịu trách nhiệm tương ứng. hợp đồng và chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong luật học, người ta chấp nhận nguyên tắc chung của tính cố ý là khi giao dịch không có đủ các điều kiện hợp lệ do pháp luật quy định thì hợp đồng tín dụng đương nhiên vô hiệu (vô hiệu tuyệt đối) hoặc có thể coi là vô hiệu (vô hiệu tương đối). Trong thực tế, do mức độ vi phạm các điều kiện hiệu lực có thể khác nhau nên mức độ vô hiệu của hợp đồng tín dụng cũng cần được xem xét ở các mức độ khác nhau (cả tuyệt đối và tương đối) để xác định cách xử lý của nhà nước đối với từng trường hợp mức độ vô hiệu cụ thể.
Nếu mục đích, nội dung và hình thức của hợp đồng tín dụng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc vi phạm đạo đức xã hội, gây thiệt hại đến lợi ích chung thì coi như vô hiệu tuyệt đối. Khi màu đỏ, bất kỳ ai có quyền lợi (không chỉ các bên trong hợp đồng) có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng tín dụng vô hiệu và thời hạn thực hiện quyền yêu cầu này không bị giới hạn (xem: Điều 132 Khoản 3 của Bộ luật Dân sự năm 2015)). Nếu hợp đồng tín dụng vô hiệu tuyệt đối thì hậu quả pháp lý của việc vô hiệu là: hợp đồng không có hiệu lực kể từ ngày ký, hai bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu trước khi ký kết.
Trên đây là toàn bộ thông tin liên quan đến điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng. Hy vọng bài viết hữu ích cho bạn.
Bạn vừa xem: Quy Định Về Giao Kết Hợp Đồng Tín Dụng ? Điều Kiện Có Hiệu Lực Của Hợp Đồng Tín Dụng
Mọi thông tin xin liên hệ với Quyentaichinh247