NHƯ LAI TỊNH TẠNG
Kinh Mật Nghiêm có bài kệ:
Như Lai thân tịnh tạng
Thế gian a-lại-da
Như vàng và nhẩn tay
Uyển chuyển không sai biệt.
Do chư Phật liễu ngộ nên thành thân tịnh tạng, loài dị sinh chấp trước nên thành a-lại-da. Như vàng ròng tùy theo người thợ kim hoàn và lò lửa trở thành nhẩn đeo tay tên gọi sai khác, tạo thành tướng huyễn tròn bé nhưng thể vàng chẳng động, danh tướng bày nhiều thứ. Chân tâm tùy theo duyên nhiễm tịnh của chúng sinh mà thành tên gọi phàm Thánh sai biệl, hiện tướng huyễn thăng trầm, tâm tính chẳng động, danh tướng vốn không, nhận giả danh chợt phân nhị kiến, ngộ chân thể viên chứng nhất tâm. Mê ngộ là ngay dưới lời, pháp dụ sáng tỏ nơi trước mắt. Mê thì nhiều kiếp tu hành uổng công, đạt thì đương thể ngưng tịch.T5,Q100,trg 19,sách trg 536
(--) Nói không chẳng đoạn, đây là cái không của hữu. nói hữu chẳng thường, đây là cái hữu của không. tập 1,Q1, sách trg 38, docx trg 32.
(--) Luận Nhân Duyên Vô Tính nói: “A-nan, Điều Đạt là em của Đức Phật, La-hầu-la, Thiện Tinh đều thuộc dòng dõi Như Lai. A-nan thì luôn luôn gần gũi hầu hạ Phật, trong khi Điều Đạt lúc nào cũng nghịch hại; La-hầu-la trân trọng gìn giữ giới hạnh như ngọc báu, còn Thiện Tinh thì phá hoại khó dạy” tập 1 ,Q7, sách trg 242, docx trg 13.
(--) Lục Tổ nói thiện ác đều không nghĩ đến thì tự nhiên được vào tâm thể. Hòa thượng Động Sơn nói: Học được việc thù thắng của Phật vẫn là dụng tâm sai lầm thì làm sao luận rộng về ý chỉ thành Phật ?
Đáp: Tông Cảnh Lục đúng là luận về nghĩa rày, vì tâm ngầm hạp với tính, Phật lý hợp chân không, đâu ở ngoài tâm vọng cầu thắng cảnh khác. Như Hoa Nghiêm Ký nói: “Liễu đạt chân không mà còn chẳng chịu làm việc thiện huống là làm việc ác sao ?”. Tà thuyết “không” nghĩa là rỗng tuếch không vật, hoặc nói tự tại không ngại tạo ác. Nếu chân thật biết không thì thiện thuận với lý sợ sinh động loạn còn không khởi tâm ưa thích thiện, ác là nghịch với lý mà thuận theo vọng tình, đâu thể tạo ác! Nếu nói tự tại không ngại tạo ác thì sao không tự tại chẳng ngại tu thiện dứt ác ? Đối với việc tu thiện còn sợ sinh tâm chấp trước thì tại sao không sợ phóng túng làm ác! Rõ ràng tà kiến là chúng sinh ác, cho đến nhập lý quán Phật còn sợ khởi tâm, huống chi những suy nghĩ tạo nghiệp trái với chí lý. Thế nên kinh Lăng Già ghi: “Phật bảo Đại Huệ: Các bậc Thánh trước kia biết rõ chuyển tướng truyền thụ vọng tưởng vô tính, đại Bồ-tát ở một nơi yên tĩnh tự giác quan sát, không do kẻ khác mà lìa vọng tưởng, luôn hướng lên thăng tiến vào đất Như Lai, đây gọi là tướng tự giác Thánh trí”. Lại nói: “Tất cả không có niết-bàn, không có niết-bàn của Phật, không có Phật niết-bàn, xa lìa năng giác sở giác. Sở giác là tướng, năng giác là kiến. Xa lìa giác và sở giác gọi là tự giác Thánh trí”. Do vì không còn năng sở nên thành Phật. Chỗ thấy biết có hạn lượng học từ người khác mà muốn vào sâu biển bát-nhã thì không thể đạt đến ngọn nguồn, như ném một thăng muối xuống sông Hằng thì nào có nhằm nhò gì ?! Nếu nội chiếu phát minh thấu triệt cội nguồn các pháp thì không lý nào chẳng sáng tỏ, không sự nào chẳng bao gồm. Như kinh nói: “Phật dạy, ta ở trong pháp vô niệm được sắc thân vàng ròng ba mươi hai tướng phóng ánh sáng chiếu không sót một thế giới”.tập 1 ,Q14, sách trg 465, docx trg 21.
(--) kinh Bảo Tích ghi: “Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: Thế Tôn! Thuyết pháp là đại thần biến, nếu là kẻ căn cơ hạ liệt chư Phật đại từ không bỏ họ cô độc, một thời dùng phương tiện lá vàng dỗ con nít khóc”. Kinh Duy-ma nói: “Dùng thần thông hóa độ chúng sinh ngu si. Nếu là bậc thượng thượng căn chỉ dạy họ quán thân thật tướng, quán Phật cũng thế” tập 1 ,Q15, sách trg 483, docx trg 12.
(--)kinh Kim Cang nói: “Nếu cho ba mươi hai tướng là Như Lai thì Chuyển luân Thánh vương tức là Như Lai”. Bài kệ nói rằng:
Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người này hành đạo tà
Không thấy được Như Lai.
KINH LĂNG NGHIÊM: Dịch:
Phật xuất ta bà giới : Đức như lai xuất hiện ở thế giói Ta Bà
Thử phương chân giáo thể : Cách giáo hóa cõi nầy
Thanh tịnh tại âm văn : Bén nhạy ở âm văn
Dục thủ tam ma đề : Muốn được tam ma đề
Thật dĩ văn trung nhập”: Phải từ nghe mà nhập
SƠ Ư VĂN TRUNG ,NHẬP LƯU VONG SỞ, SỞ NĂNG KÝ TỊCH, ĐỘNG TỊNH NHỊ TƯỚNG, LIỂU NHIÊN BẤT SANH.NHƯ THỊ TIỆN NĂNG, VĂN SỞ VĂN TẬN, TẬN VĂN BẤT TRỤ, GIÁC SỞ GIÁC KHÔNG, KHÔNG GIÁC TỊCH NHIÊN,KHÔNG SỞ KHÔNG DIỆT, SANH DIỆT KÝ DIỆT, TỊCH DIỆT HIỆN TIỀN
(--)KIẾP:
Hỏi: Luận về lý thành Phật có người nói một niệm, có người nói ba a-tăng-kỳ, chẳng biết nên lấy thuyết nào để chỉ dạy kẻ hậu học ?
Đáp: Ý chỉ thành Phật chẳng phải là thời kiếp, giáo lý sâu cạn thuộc về quyền nghi, cho nên Luận Khởi Tín nói: “Chúng sinh dũng mãnh thành Phật trong một niệm còn kẻ giải đãi đắc quả phải trải qua ba a-tăng-kỳ”.
Lăng Nghiêm Kinh Sao nói: “Kiếp là nghĩa thời phần, có tính cách thành trụ hoại không, đều do chúng sinh vọng thấy mà cảm đến. Do vọng kiến động nên ngoại cảm phong luân, do ái phát nên ngoại cảm thủy luân, do tâm chấp chặt nên ngoại cảm địa luân, do tìm cầu nóng nảy nên ngoại cảm hỏa luân, do tứ đại nên khởi lục căn, khởi lục căn nên thấy lục trần, thấy lục trần nên có thời phần”. Nếu thấu rõ căn bản vô minh, một niệm vọng tâm thì biết ba cõi từ tâm sinh ra rốt cuộc không có. Vả lại thời gian nhân trần cảnh mà lập ra, trần cảnh vốn không thì thời gian tự vô thể, đâu cần nói đến kiếp số nhiều ít. Chỉ cần một niệm dứt sạch vô minh thì đâu phải trải qua ba a-tăng-kỳ ? Thế nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Như huyễn tam-ma-đề chỉ cần khảy ngón tay là vượt qua vô học”. Lại nói: “Tưởng tướng là trần, thức tình là cấu; xa lìa cả hai thì pháp nhãn của ông tức thì trong sáng làm sao không thành tri giác vô thượng”. Kinh Viên Giác nói: “Biết huyễn liền lìa, không cần phương tiện; lìa huyễn liền giác, không có thứ tự”. Cho nên biết kiếp số dài ngắn là do một niệm mà có; tam thừa tứ quả đều là giấc mơ, nên nói lúc ngộ thì không có nhiều kiếp. Do đó kinh Pháp Hoa nói nửa ngày là năm mươi tiểu kiếp, kinh Duy-ma nói bảy ngày là một kiếp. Kinh Niết-bàn nói đồ tể Quảng Ngạch mỗi ngày giết một nghìn con dê, về sau phát tâm bồ-đề. Phật nói ông ta sẽ thành Phật trong Hiền kiếp. Các vị đại Bồ-tát và A-la-hán nghi ngờ; Chúng con thành Phật còn lâu xa lắm, Quảng Ngạch cớ sao thành Phật trước chúng con ? Phật nói: Muốn được thành Phật sớm thì thành sớm, muốn thành Phật muộn thì thành muộn. Nếu thấy ngay chân tính thì một niệm liền thành Phật, cho nên biết lợi độn chẳng đồng mau chậm do mình. Có thể nghiệm rằng tâm sinh pháp sinh, tâm diệt pháp diệt. Vì ba cõi chỉ là nhất tâm tạo ra tất cả cảnh giới đều do động niệm tạo thành, nếu niệm chẳng sinh thì cảnh vốn vô thể, xét cho cùng động niệm cũng không tịch. Tức là biết rõ khi mê không mất, khi ngộ không được, tập 1 ,Q17, sách trg 525, docx trg 1
PHẠM GIỚI DÂM
(-)Ta thường chẳng phải nói tâm cấu nên chúng sinh cấu, tâm tịnh nên chúng sinh tịnh ? Đáp: Đúng vậy. Phật bảo: Ý ngươi thế nào ? Trong chiêm bao khi thọ dục tâm ngươi có biết chăng ? Đáp : Có biết. Phật bảo: Khi ngươi phạm dâm dục há chẳng phải do tâm mà hay biết ? Đáp: Đúng vậy. Phật dạy: Nếu như thế thì tì-kheo khi thức và mộng phạm dâm dục có gì sai khác ? Tì-kheo đáp: Tỉnh mộng phạm dục không sai khác. Phật dạy: Ý ngươi thế nào ? Trước kia ta chẳng thường nói tất cả các pháp đều như mộng ư ? Đáp: Đúng vậy. Phật dạy: Ý ngươi thế nào ? Các pháp trong mộng là chân thật chăng ? Đáp: Không. Phật bảo: Ý ông thế nào ? Thức và mộng hai tâm đều là chân thật chăng ? Đáp: Không. Phật bảo: Nếu chẳng phải chân thật là có pháp chăng ? Đáp: Không. Phật bảo: Ý ngươi thế nào ? Không chỗ có pháp là có sinh chăng ? Đáp: Không. Phật bảo: Nếu pháp không sinh thì có diệt có trói buộc cởi mở không ? Đáp: Không. Phật bảo: Ý ngươi thế nào ? Pháp vô sinh còn không có thì có việc đọa vào ba đường ác chăng ? Phật bảo: Tất cả các pháp bản tính thanh tịnh, song phàm phu ngu si vô trí, đối với chỗ không có pháp mà vọng sinh phân biệt, vì phân biệt nên đọa vào ba đường ác. tập 1 ,Q18, sách trg 567, docx trg 9
(-) Kinh Nguyệt Tạng ghi: “Phật nói: Thế nên đối với pháp bình đẳng tư duy quan sát, không lìa chúng sinh có pháp, không lìa pháp có chúng sinh, thể tính chúng sinh chính là thể tính của mình, thể tính của mình chính là thể tính của các pháp, thể tính của các pháp chính là thể tính của Phật pháp. tập 1 ,Q19, sách trg 608, docx trg 11
NHƯ LÝ - CHÂN THẬT - CÚNG DƯỜNG:
(-)“Thấy thật là Phật, như thế cũng gọi là chân kiến đạo, cũng gọi là chân cúng dường”.
Hỏi: Thế nào là chân cúng dường ?
Đáp: Khế hợp tâm đúng như lý, không có ý tưởng thấy Phật, rõ tự pháp thân là chân cúng dường. Kinh Bảo Tích nói: “Chân cúng dường là không nghĩ đến Phật, không thấy có Phật, huống là cúng dường. Nếu muốn cúng dường Phật thì nên cúng dường tự thân”.
Hỏi: Làm thế nào cúng dường tự thân ?
Đáp: Nếu bỏ chính mình chạy theo trần lao đây là trái nghịch. Có thể hồi quang phản chiếu, tùy thuận chân như, cảnh trí thầm hợp, đây là chân cúng dường ...
kinh Bảo Vũ nói: “Tư duy đúng như lý tức là cúng dường tất cả Như Lai”.
Hỏi: Thế nào là tư duy đúng như lý ?
Đáp: Chỉ cần tất cả không tư duy là chân tư duy, vì đốn ngộ nhất tâm không cách nào suy lường được, thế nên mười phương chư Phật chứng tâm thành đạo nên gọi là như lý. Nếu rõ tự tâm hay thuận ý Phật đó là cúng dường tất cả Như Lai. Nếu không y theo như lý ngộ tâm thì làm mọi việc mà ngoài tâm thấy Phật, dù trải qua nhiều kiếp đều không phải chân thật cúng dường, vì trái với ý Phật. Như kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:
Dù trong mỗi mỗi niệm
Cúng dường vô lượng Phật,
Chưa biết pháp chân thật,
Không gọi là cúng dường.
Thế nào là pháp chân thật ? Đó là thấu rõ tâm chân như vô sinh. Thế nên kinh Tư Ích hỏi: Ai hay cúng dường Phật ? Phật đáp: Người hay thông đạt vô sinh.
Kinh Văn-thù Bát-nhã nói: “Phật hỏi Văn-thù: ông cúng dường Phật như thế nào ? Văn-thù đáp: Bạch Thế Tôn, tâm số người huyễn diệt là cách con cúng dường Phật”.tập 2 ,Q23, sách trg 73-74, docx trg 6
NHƯ LAI CHỪNG NÀO TRỞ LẠI LÀM CHÚNG SINH:
Kinh Viên Giác ghi: “Bồ-tát Kim Cương Tạng bạch Phật: Bạch Thế Tôn, nếu các chúng sinh xưa nay thành Phật, vì sao lại có vô minh ? Nếu chúng sinh vốn có vô minh vì sao Như Lai lại nói xưa nay thành Phật ? Mười phương dị sinh vốn thành Phật đạo sau đó khởi vô minh, Như Lai khi nào lại sinh ra phiền não ? Cúi mong Như Lai từ bi mở kho bí mật cho các Bồ-tát”... Phật dạy: Thiện nam, tất cả thế giới trước sau sinh diệt, trước sau có không họp tan đi đứng, niệm niệm nối tiếp tuần hoàn qua lại, các thứ thủ xả đều là luân hồi. Chưa ra khỏi luân hồi mà biện viên giác thì tính viên giác kia tức đồng lưu chuyển. Nếu không bị luân hồi, điều ấy không bao giờ có! Ví như mây bay trăng chuyển, thuyền chạy bờ dời; cũng như thế, thiện nam, sự xoay vần chưa dứt thì các vật kia không thể dừng lại, huống là tâm cấu uế luân hồi sinh tử chưa thanh tịnh thì quán viên giác Phật không trọn vẹn, thế nên các ông liền sinh ra ba thứ hoặc. Thiện nam, ví như con mắt bị bệnh thấy hoa đốm trước mặt, nếu bệnh mắt hết thì không thể nói rằng bệnh mắt này đã hết lúc nào khởi trở lại, vì sao ? Vì mắt bệnh và hoa đốm chẳng phải đối đãi nhau. Cũng như lúc hoa đốm diệt rồi không thể bảo khi nào hoa đốm khởi lại, vì sao ? Vì hư không vốn không có hoa đốm. Sinh tử niết-bàn cùng theo sinh diệt, diệu giác viên chiếu lìa hoa đốm và bệnh mắt. Thiện nam, nên biết hư không chẳng phải tạm có, cũng chẳng phải tạm không; huống chi viên giác Như Lai tùy thuận như hư không bản tính bình đẳng. Thiện nam, ví như nấu chảy quặng vàng, vàng chẳng phải do nấu chảy mà có, đã thành vàng rồi thì không thể trở lại thành quặng. Trải qua bao nhiêu kiếp tính vàng bất hoại, không nên nói rằng vốn chẳng phải thành tựu. Viên giác Như Lai cũng như thế, cho nên biết viên giác diệu tâm như tính hư không, sinh tử niết-bàn là tướng hoa đốm trong hư không. Mắt bệnh thấy sinh diệt, chân tính đâu từng có không, như quặng chứa vàng, vàng chẳng phải do quặng mà có, lại chẳng phải nấu chảy mà được. Lúc mê như vàng chưa luyện, khi ngộ như đã thành vàng báu. Vàng thật bất động, nhơ sạch tự phân, diệu tính không khuyết, mê ngộ tự được”.tập 2 ,Q23, sách trg 96, docx trg 23
HƯƠNG TÍCH:
“Nếu người chưa phát tâm đại thừa mà ăn cơm này, đến khi phát tâm liền tiêu hóa; nếu người đã phát tâm ăn cơm này, sẽ được vô sinh nhẫn rồi liền tiêu hóa; nếu người đã được vô sinh nhẫn ăn cơm này, đến nhất sinh bổ xứ, sau đó liền tiêu hóa. Ví như có thuốc tên là thượng vị, ai uống vào chất độc trong thân đều tiêu trừ. Cơm này cũng như thế, diệt trừ tất cả phiền não độc sau đó liền tiêu hóa. Như các đại Bồ-tát tuy còn sinh tử biết trong thân đời sau có chủng tử, chủng tử gặp duyên sinh trở lại, cơm thơm tiếp nối không dứt cho đến Sơ Địa phát tâm vô lậu đoạn hoặc chứng chân gọi là tiêu, chứ không phải cơm hết gọi là tiêu. Cho nên biết người ăn cơm này pháp nào chẳng tiêu”. Lại nói: “Bồ-tát lúc ấy nghe mùi hương mà vào luật hạnh được nhất thiết đức tạng tam-muội. Người được tam-muội này sẽ có đầy đủ các công đức của Bồ-tát”. Thế nên nếu từ mùi hương thể nhập pháp giới thì tự thân là thế giới chúng hương, tự tâm là Như Lai Hương Tích, vô lượng công đức nhất tâm viên mãn. Người ngộ nhập điều này đâu còn tìm câu bên ngoài ? Hương giới đã vậy thì mười tám giới cũng thế, đều là nơi an dưỡng tinh thần là chỗ đắc đạo”.tập 2 ,Q24, sách trg 127, docx trg 14-15
SỰ THẤY CỦA TỪNG CẤP ĐỘ
Chẳng hạn như đồ vật của cư sĩ Minh Trí ở trong hư không tùy ý mà sinh ra vô hạn thức ăn ngon, khi nghĩ đến liền từ hư không rơi xuống. Hễ ai đến cầu đều được đáp ứng, được thức ăn này thì chứng tất cả pháp môn, ăn thức ăn này thì thành tựu diệu đạo. Có thể nói là không một trần nào mà chẳng đầy đủ Phật sự, không một pháp nào mà chẳng viên mãn chính tông. Chỉ tùy theo tâm chúng sinh ứng theo lượng sở tri, theo nghiệp phát hiện nên chỗ thấy khác nhau. Ngoại đạo thấy là tự nhiên, phàm phu thấy là sinh tử, Thanh văn thấy là tứ đế, Duyên Giác thấy là nhân duyên, tiểu Bồ-tát thấy là đãn không, đại Bồ-tát thấy là trung đạo, chư Phật thấy là thật tướng. Nếu vào Tông Cảnh các chỗ thấy trên đều dung hợp.Tâp2 Q24 sách trg 130 docx16
PHI TÂM PHI PHẬT
Hỏi: Như trên nói ý chỉ tức tâm tức Phật. Phật Tổ ở Tây Thiên, Trung Quốc đồng tuyên nói, lý sự rõ ràng như thấy trước mắt. Tại sao lại nói phi tâm phi Phật ?
Đáp: Tức tâm tức Phật là biểu thuyên, là trực tiếp biểu thị chân lý để thân chứng tự tâm, thấy tính rõ ràng. Còn phi tâm phi Phật là già thuyên, là che giấu tội lỗi, dẹp nghi phá chấp, dẹp trừ tình kiến, y thông ý giải nhận lầm sự việc, vì tâm Phật đều bất khả đắc, cho nên nói là phi tâm phi Phật. Đây là pháp môn quét sạch năng tâm, quyền lập đốn giáo, dứt sạch không nương gá, đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt, cho nên đây cũng là lối vào thẳng tắt. Nếu viên giáo là pháp tình tận thể lộ, có già có biểu, phi tức phi ly, thể dụng tương thâu, lý sự vô ngại. Học giả ngày nay đã không có con mắt trí tuệ, lại còn thiếu sự học rộng, nghiêng nặng về việc ngăn chặn tội lỗi mà không thấy lý viên thường, không biện chủ tớ, nào phân chân ngụy. Như bỏ đi biển cả mà giữ lại hòn bọt, bỏ vàng lấy gạch, nắm bọt nước cho là của báu, cho sỏi đá là châu ngọc. Do đó kinh nói: “Như kẻ trộm ngu si, vứt bỏ vàng ngọc, khuân lấy gạch ngói”. Nay biên tập sách này chủ yếu cũng vì việc trên, bởi tâm với Phật đều là danh tự thế gian, thị cùng với phi đều là cái thấy phân biệt, bàn suông nghĩ rỗng làm sao trở về chân thật. Do đó Tổ sư nói: “Nếu nói tâm này là Phật như trâu có sừng, nếu nói phi tâm phi Phật như thỏ không sừng, đều là đối dãi gượng gọi là chuyện nhảm nhí”.Tập2 Q25 sách 175 doxc 19 (chương 25 đoạn đầu nói pháp hoa)
XA CỰC ĐOAN KHỔ HẠNH ÉP XÁC
Như Ni-kiền-tử ở Ấn Độ ngũ nhiệt nướng thân sinh đại tà kiến, đệ tử Phật nói với họ: Thiện nam, như người thế gian đánh xe ngựa chạy trên đường, muốn chóng đến nơi thì đánh con ngựa là phải hay đánh chiếc xe là phải ? Ni-kiền-tử nghe nói thế bèn nổi giận! Đệ tử Phật nói: Thiện nam, con ngựa dụ cho tâm, chiếc xe dụ cho thân, sao chịu khổ thân mà chẳng tu tâm, không cần nướng thân mà cần phải nướng tâm.Tập2 Q27 sách trg215 doxc trg 3
NGU DỐT MÀ THIỀN LÀ SI THIỀN
Nếu trái với giáo lý thì chỉ thành chứng mù, chỉ vì mắt của mình không sáng, giữ lấy sự lặng lẽ và chỉ ngồi si thiền, cho nên huệ tâm chẳng sáng, uổng theo tà hạnh chưa đáng chân tu. Lúc đầu vào đạo cần phải có đủ giáo quán, nắm lấy quán môn bỏ đi giáo chỉ, trọn thành ngu si thượng mạn; chạy theo lời nói của người, trái với tự tâm thì bị chê trách là đếm của báu. Do đó kinh Hoa Nghiêm nói về sự thành tựu trí tuệ vô sinh, trước tiên phải nhờ vào đa văn. Kinh Phật Tạng nói về pháp môn chóng vào niết-bàn đều do nghe pháp.
Kinh Phật Tạng có bài tụng:
Trăm nghìn tăng ngu dốt
Vô tuệ tu tĩnh lự
Trải qua trăm nghìn kiếp,
Chẳng ai đắc niết-bàn.
Người thông minh trí huệ,
Hay nghe pháp nói pháp,
Chính niệm trong chốc lát,
Hẳn chóng đến niết-bàn.Tập 2 ,Q29,trg 320,doxc trg19
TỰ & THA
Thiên thai giáo nói: “Người chuyên quán vô sinh chỉ tìm sự lợi ích của tự tâm mà chẳng tin vào lợi ích của sự gia bị chư Phật bên ngoài, đây là sa vào tự tính si. Còn người chỉ tin vào sự gia bị của Phật bên ngoài, chẳng tin sự lợi ích của nội tâm, đây là rơi vào tha tính si. Cộng si và vô nhân si cũng có thể hiểu”.
Người tự tính si như người thế gian kéo vật nặng không nổi phải nhờ sức của người bên cạnh trợ giúp mới tiến tới, tại sao chẳng tin ? Tội cấu trọng nhờ sức gia bị của Phật trợ giúp khiến quán tuệ được tăng thêm.
Như vậy ông từ đâu được nội quán vô sinh, từ thầy, hay từ kinh, hay do tự ngộ ? Thầy với kinh là duyên bên ngoài của ông, nếu tự ngộ chắc hẳn phải nhờ gia bị, ông chẳng biết ơn sao, như cây cối chẳng biết ơn của mặt trời, mặt trăng, gió, mưa v.v... Kinh nói: “Chẳng phải trong, chẳng phải ngoài mà trong, mà ngoài”. Trong nên chư Phật tìm sự giải thoát trong tâm hành; ngoài nên chư Phật hộ niệm tại sao chẳng tin sự lợi ích của bên ngoài ?Tập 4,q 61,docx trg 17, sách trg 28
" 6. Bất Thức Huyền Chỉ.Đồ Lao Niệm Tịnh / Chẳng Biết Huyền Chỉ.Nhọc Công Niệm Tịnh."TĂNG XÁN.
THIỀN - ĐỊNH
kinh Pháp Hoa nói: “Nhờ sức thiền định, trí tuệ mà được cõi nước pháp”. Lại nói: “Sức định tuệ trang nghiêm, dùng đây độ chúng sinh”. Bài tụng trong kinh Hoa Nghiêm nói:
Hoặc kiến luôn trói buộc chúng sinh
Vô thỉ dày đặc chưa dẹp trừ
Hoặc ấy với tâm đều cùng sinh
Thường ràng buộc nhau chẳng hề dứt
Chỉ là vọng tưởng chẳng chân thật
Chẳng lìa nơi tâm, chẳng nơi chốn
Cảnh định bày ra vẫn thoái chuyển,
Đạo kim cang diệt mới tất cánh.
Kinh Đại Niết-bàn nói: “Cùng học định tuệ, thấy rõ Phật tính”. Lại nói: “Trước lấy định lay động, sau dùng tuệ nhổ lên”.
Luận Đại Trí Độ nói: “Thiền định là cha trí tuệ là mẹ, hay sinh ra tất cả đạo sư”. Lại nói: “Vì nghiệp lực nên đi vào sinh tử; do định lực nên ra khỏi sinh tử”.
Vì thế nói thiền không có trí thì không thể tận cùng sự lặng lẽ; trí không có thiền thì không thể phát sinh sự chiếu soi. Vì sao ? Vì thiền không có trí chỉ là sự định; nếu được trí tuệ quán xét tâm tính tức là thượng định. Nếu trí không có thiền chỉ là tán loạn khéo phân biệt; tuệ nếu có định giống như nhà kín đèn đứng yên hay soi sáng, vì lìa dao động phân biệt mà thành trí tuệ chân thật. Nếu định tuệ vận hành động tĩnh dung thông thì niệm niệm vào môn tam-muội lặng lẽ chiếu soi vô cùng..Tập 3,Q 45,sách trg 142,docx trg 05
Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Huyễn vọng gọi là tướng, tính của nó là diệu giác minh thể”. Thế nên nếu thiên chấp tướng thì thành vọng, định theo tính thì trầm không. Nay thì tính tướng dung thông, chân vọng giao triệt không rơi vào hai kiến thường, đoạn trở thành tông vô tận Tập 3,Q 45,sách trg 162,docx trg 19
TẤT CẢ LÀ MỘT, MỘT TRONG TẤT CẢ
kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Phật bảo các tỳ-kheo tất cả pháp chỉ là một pháp. Thế nào là một pháp ? Tâm là một pháp, lìa tâm không có tất cả pháp”. Luận Trí Độ nói: “Từ lúc bắt đầu chuyển pháp luân đến nhập niết-bàn, kết tập kinh tạng, đây chỉ là căn cứ tâm sinh diệt nói về tứ Thánh đế, là nghĩa pháp quy pháp bản. Quán tâm lưu xuất tất cả luật tạng, lúc Phật chế giới hỏi các tỳ-kheo tâm ông nghĩ gì ? Nếu có tâm tạo tác là phạm giới. Vì có phạm nên có trì, nếu không có tâm tạo tác thì không gọi là phạm; cái nghĩa vi phạm chẳng thành, cho nên từ tâm phát sinh giới, không tâm thời không có giới. Nếu nói từ tâm phát ra luận tạng thì bốn quyển lược nói gọi là Tỳ-đàm tâm, trong Đạt-ma-la gọi là tạp tâm. Trên đây đều là căn cứ vào tâm để luận bàn. Thắng luận là phân biệt các tâm và tâm số pháp, tất cả pháp không thể so sánh.Tập2,Q35, sách trg513, doxc trg11
Kinh Hoa Nghiêm: Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai.
Một niệm tâm khởi có ba nghìn tướng thế gian, một nghìn quốc độ thế gian, đất đai, sông, núi, mặt trời, trăng sao, một nghìn ngũ ấm thế gian, tất cả sắc tâm nhiễm tịnh, một nghìn chúng sinh thế gian đó là lục phàm tứ Thánh bản chất hư giả. Một niệm tâm khởi ba nghìn tính tướng đồng thời khởi; một niệm diệt ba nghìn tính tướng đồng thời diệt. Ngoài niệm không có một pháp để được, ngoài pháp không có một niệm để được. Tâm tính này viên minh một mà có thể nhiều, nhỏ mà có thể lớn, nhiễm mà có thể tịnh, nhân mà có thể quả, có mà có thể không, cho nên mỗi mỗi sắc, mỗi mỗi hương, mỗi mỗi niệm đều có tâm tức có đủ ba nghìn. Một chỗ thấy nhiều, nhiều chỗ thấy một, một niệm là nhiều kiếp, nhiều kiếp là một niệm, trùng trùng hiển hiện dụ như lưới báu trời Đế Thích, đây là giả quán. Tập2,Q35, sách trg526, doxc trg21
PHÁP NHÂN DUYÊN CHẲNG PHẢI CHÂN
Vì là pháp nhân duyên nên chẳng phải chân đế. Cho nên Trung Quán nói: “Vật sinh ra từ nhân duyên nên chẳng phải chân thật; những vật không từ nhân duyên sinh ra mới là chân thật”. Vì chân chẳng phải duyên nên không có vật nào từ duyên mà sinh, cho nên kinh nói: “Chẳng thấy có pháp không do nhân duyên mà sinh”. Tập2,Q36,sách trg561,doxc trg22
CHẤP TƯỚNG THÌ KHÔNG GIẢI THOÁT
kinh Tư Ích nói: “Nếu người sinh kiến chấp đối với pháp thì không thể thấy Phật. Thế Tôn, nếu người nhất định thấy niết-bàn thì người này không thể thoát sinh tử, vì sao ? Vì niết-bàn là dẹp trừ các tướng, xa lìa tất cả động niệm hý luận, cho nên nói về thành hoại, hữu vô đều là theo danh tự thế gian, không khác gì kiến chấp của ngoại đạo như con chó đuổi theo hòn đất làm sao đạt đến tự tông” Tâp2,Q40,sách trg685,dox trg 5
ĐỐN GIÁO
kinh Tư Ích ghi: “Hỏi: Lấy pháp gì tu đạo ? Đáp: Không dùng sự thấy nghe hiểu biết, chẳng được, chẳng chứng; đối với tất cả pháp không tướng, không chỉ bày gọi là tu đạo”. Hoa Nghiêm Sớ nói: “Đốn giáo không nói đến pháp tướng, chỉ bàn về chân tính, không có tướng sai biệt của tám thức”.
Giải thích: Tám thức tâm vương còn không sai biệt, huống là các pháp do tâm biến hiện là có chăng ? Tâm sinh thì các pháp sinh; tâm diệt thì các pháp diệt. Cho nên luận Khởi Tín nói: “Tất cả các pháp chỉ nương vào vọng niệm mà có sai biệt. Nếu lìa tâm niệm thì không có các tướng cảnh giới, thế nên tất cả pháp từ xưa đến nay lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, tuyệt đối bình đẳng không sai khác, chỉ là nhất tâm nên gọi là chân như, vì tất cả ngôn thuyết giả danh không thật chỉ tùy vọng niệm bất khả đắc”. Do đó Sớ nói: “Những gì hiện hữu đều là vọng tưởng, tất cả pháp giới chỉ là tuyệt ngôn”, cho nên luận Khởi Tín nói: “Chân như cũng không có tướng, nghĩa là tột cùng của ngôn thuyết, nhân lời nói dẹp bỏ lời nói. Thể của chân như không thể dẹp bỏ vì tất cả pháp đều chân thật; cũng không thể lập vì tất cả pháp đều đồng chân như; phải biết tất cả pháp không thể nói, không thể niệm nên gọi là chân như, vì tất cả pháp tính đều lìa ngôn thuyết”. Tông - C - Lục ,Tập 3,Q41,Sách trg 6,doxc trg1
LIỄU TÂM
Trung Luận có kệ:
Chư Phật hoặc nói ngã.
Hoặc nói không có ngã.
Trong thật tướng các pháp,
Không ngã không phi ngã.
Cho nên đều phải dẹp bỏ cả hai. Sớ nói: “Quở giáo, khuyên lìa, hủy tướng, dứt tâm”. Quở giáo nghĩa là đem tâm truyền tâm, chẳng nhờ văn tự. Khuyên lìa nghĩa là khuyên nên xa lìa pháp. Pháp tuy nhiều vô lượng nhưng không ngoài sắc tâm; lìa tâm tâm như, lìa sắc sắc như, cho nên khuyên lìa hết để khế hợp tâm thể ly niệm. Hủy tướng theo cảnh, vì những gì có tướng đều là hư vọng. Dứt tâm theo trí, rõ cảnh tướng không, tạm gọi là trí. Tướng đã không, trí làm sao thật ? Tâm cảnh đều mất thì thảy đều dứt sạch. Tâm không có tâm tướng tức là an tâm, nên nói sinh tâm là vọng, chẳng sinh tâm là Phật. Nói sinh tâm nghĩa là chẳng phải chỉ sinh những tâm khác, cho dù sinh tâm bồ-đề, niết-bàn, quán tâm, kiến tính cũng gọi là sinh tâm, đều là vọng tưởng. Niệm tướng đều tịch mới gọi là bất sinh; tịch chiếu hiện tiền làm sao không gọi là Phật ? Cho nên trên bia Tổ Đạt-ma có ghi: “Tâm có thì nhiều kiếp đọa phàm phu, tâm không thì sát-na lên Chính giác”.
Nói tâm không, chẳng phải là thấu rõ tâm không chẳng sinh liễu tri, vì thế Vi Thị Ngự hỏi hòa thượng Ngưỡng Sơn ý nghĩa liễu tâm; hòa thượng đáp: Nếu muốn liễu tâm, không có tâm để liễu, vô liễu mà liễu đây là chân liễu. Kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:
Tất cả pháp chẳng sinh,
Tất cả pháp chẳng diệt.
Nếu hiểu được như thế
Chư Phật thường hiện tiền.Tông - C - Lục ,Tập 3,Q41,Sách trg 8,doxc trg 3
THIỆN PHÁP CŨNG LÀ PHÁP ĐIÊN ĐẢO:
Pháp điên đảo đại lược có ba: một là tâm điên đảo, hai là kiến điên đảo, ba là tưởng điên đảo. Tâm như chúa đảng cướp, kiến là thân thể cướp, tưởng là chân tay cướp, căn trần là môi giới cướp. Trong ngoài liên kết cướp sạch gia sản, vì vậy sắc đẹp cướp đi nhãn căn, âm thanh hay cướp đi nhĩ căn, mùi hương cướp đi tỉ căn, mùi vị cướp đi thiệt căn, chạm xúc cướp đi thân căn, thiện pháp cướp đi ý căn, pháp tài cạn kiệt, kho trí rỗng không. Hoặc như kẻ oán thù giả làm người thân nào ai biết ? Nếu như biết là kẻ cướp thì bọn cướp không làm gì được, nếu có thể rõ cảnh biết tâm thì chắc chắn không còn ngoại trần xâm hại, nối kết không thể trói buộc! Chẳng hạn như tám pháp tâm vương cho đến sáu thứ vô vi, tổng cộng một trăm pháp được chúng sinh sử dụng hàng ngày, luôn luôn đầy đủ, không một niệm nào chẳng sinh; với tâm niệm ấy luôn suy lường nên không được thảnh thơi. Tập 3,Q42.Sách trg 61,doxc trg 19
TỬ TƯỞNG
Luận Đại Trí Độ có kệ:
Có tuệ không đa văn
Là chẳng biết thật tướng
Ví như trong tối tăm
Có mắt mà chẳng thấy.
Đa văn không trí tuệ
Cũng chẳng biết thật tướng
Ví như nơi sáng tỏ
Có đèn mà không mắt.
Đa văn thêm trí tuệ
Cả hai đều cần thiết.
Không văn không trí tuệ,
Là trâu mang lớp người. Docx trg 3
Này thiện nam, một hơi thở, một chớp mắt thọ mạng chúng sinh có bốn trăm lần sinh diệt. Người trí nếu có thể quán sinh mạng như thế, gọi là hay quán niệm niệm diệt.
Này thiện nam, người trí quán sinh mạng thuộc về tử sinh, nếu ta có thể lìa tử sinh này thì dứt hẳn thọ mạng vô thường. Lại nữa, người trí quán thọ mạng này như cây cao to đứng bên bờ sông, như có người tạo tội đại nghịch và bị giết chết không thương xót, như lúc sư tử chúa đói khát, như lúc rắn độc hút gió lớn, như lúc ngựa khát tiếc giữ nước, như lúc đại ác quỉ nổi giận, sinh tử của chúng sinh cũng như thế. Này thiện nam, người trí nếu có thể quán như thế đây gọi là tu tập tử tưởng. Này thiện nam, người trí lại quán nay ta xuất gia dù chỉ sống trong bảy ngày bảy đêm, ta nên tinh cần tu đạo, giữ gìn giới cấm, thuyết pháp giáo hóa làm lợi ích chúng sinh đây gọi là người trí tu tập tử tưởng. Lại có người cho bảy ngày bảy đêm là nhiều, nếu được sáu ngày, năm ngày, bốn ngày, ba ngày, hai ngày, một ngày, một giờ, cho đến trong khoảng một hơi thở ra vào, ta phải tinh cần tu đạo giữ gìn giới cấm, thuyết pháp giáo hóa làm lợi ích chúng sinh, đây gọi là người trí tu tập tử tưởng”.Tâp 3,Q43,sách trg 79, docx trg 9
TỰ THA
Như Tự Tha Quản Môn trong Hoàn Nguyên Tập ghi: “Hai thân là tự tha; thân người là tha, thân mình là tự. Một thân còn là tự tha, sắc thân là tha, tâm là tự. Tâm còn là tự tha, tâm là tha, trí là tự. Trí lại có tự tha, có trí sở đắc là tha, không trí sở đắc là tự. Không trí sở đắc lại có tự tha, tịnh trí là tha, tịnh cũng tịnh là tự”. Quán thân thật tướng, quán Phật cũng thế. Cúi lạy hư không vô sở y, tâm tịnh vượt qua các thiền định, vô trụ thì vô bản giác, đây gọi là Phật. Giả danh gọi là Phật, cũng không có Phật để thành. Không thành có thể thành không xuất có thể xuất, đây gọi là Phật xuất. Tập 3,Q 54, docx trg 10 sách trg 430
Luận Đại Trí Độ nói: “Ví như ngựa đã thuần tự thấy bóng chẳng sợ hãi, vì sao ? Tự biết bóng từ nơi thân; người điều thuận tín nhập Nhất thừa thấy tất cả cảnh hiện bày chẳng sợ hãi, vì tự biết cảnh từ tâm sinh”.
Luận Duy Thức ghi: “Như khế kinh nói “tam giới duy tâm”; lại nói “cảnh sở duyên do duy thức hiện”, lại nói “các pháp chẳng lìa tâm”; lại nói “hữu tình theo tâm cấu tịnh”; lại nói “Bồ-tát thành tựu bốn trí có thể tùy ngộ nhập duy thức không cảnh”; lại tụng: “Tâm ý thức sở duyên, đều chẳng lìa tự tính, nên ta nói tất cả chỉ có thức mà thôi”. Hầu hết các Thánh giáo đều chứng minh điều này.Tập 4, q 62, sách trg 40,docx trg 03
Thánh giáo trái nhau:
Tiểu thừa hỏi: Nếu luận chủ nói tất cả đều là duy thức, ngoài tâm không có cảnh thật, tại sao trong kinh A-hàm, Thế Tôn nói có 12 xứ. Nếu tất cả đều là duy thức, Thế Tôn chỉ cần nói ý xứ, pháp xứ, chẳng cần nói có mười sắc xứ. Nay Thế Tôn đã nói có 12 xứ là biết lìa ngoài ý pháp xứ riêng có mười sắc xứ, đây là ngoài tâm có pháp sao lại nói tất cả đều là duy thức ? Luận chủ đưa ra ba cách giải đáp: giả đáp, chính đáp, dụ đáp.
1- Giả đáp: Trích dẫn Tam Thập Duy Thức Tụng :
Thức sinh từ chủng tử
Tựa cảnh tướng lưu chuyển
Làm thành nội ngoại xứ
Phật nói đó là mười.
Thức sinh từ chủng tử, nghĩa là hiện hành của tự chứng phần năm thức đều sinh từ chủng tử của năm thức, lấy chủng tử của năm thức làm năm căn.
Tợ cảnh tướng lưu chuyển, nghĩa là tự chứng phần của năm thức đã từ chủng tử sinh lại có thể biến hiện dường như hai phần: kiến phần sở biến gọi là năm thức, tướng phần sở biến dường như ngoại cảnh hiện gọi là năm cảnh. Kỳ thật năm cảnh và năm căn đều chẳng lìa thức, cũng là duy thức. Đây là tạm đem chủng tử của năm thức làm năm căn đáp các sư phái Kinh Lượng, vì phái này thừa nhận có chủng tử.
Hỏi: Dù thừa nhận có chủng tử thì đâu chẳng chấp lìa thức có pháp ?
Đáp: Họ thừa nhận chủng tử giữ gìn trong sáu thức trước cũng chẳng lìa thức mà có. Luận chủ nói: Tướng phần sở biến dường như năm cảnh bên ngoài cũng chẳng lìa thức; chủng tử của năm thức năng biến là năm căn cũng chẳng lìa thức mà có.
Tuy phân mười chỗ trong ngoài nhưng đều là duy thức.
Phật nói đó là mười, nghĩa là đem mật ý của Phật để phá việc chấp thân là một hợp tướng của ngã của ngoại đạo bèn đối với pháp vô ngôn miễn cưỡng dùng lời nói phân biệt nói có năm căn và năm trần để được lợi ích lớn. Duy Thức Tụng:
Y giáo có thể nhập
Lãnh hội hướng vô ngã.
Giải thích: Nếu là người có trí liền y theo lời Phật nói về năm căn, năm trần rồi quán sát: “Ta từ vô lượng kiếp đến nay vì tìm cầu ác tuệ, ngu si mê ám vọng chấp thân mình thân người là một hợp tướng của ngã, do đây phải chìm đắm trong sinh tử. Hôm nay y theo giáo lý quán sát thân mình thân người chỉ có năm căn năm trần hợp thành. Trong mỗi chỗ đều không có chủ tể, không có tác dụng tự tại thường nhất, đâu từng có ngã. Nhân đây có thể ngộ nhập lý vô ngã, thành tựu ngã không quán. Đây là Đại thừa tạm đem năm chủng tử làm năm căn tạm đáp Tiểu thừa.
Tiểu thừa lại hỏi: Nếu thế, tướng phần sắc của năm trần là do năm thức biến ra, đúng như tông của ông là duy thức. Bản chất của năm cảnh sắc chẳng biết là duy thức của thức nào ? Đó là năm thức và thức thứ sáu đều chẳng trực tiếp duyên bản chất năm cảnh, tức là bản chất năm cảnh đâu chẳng phải lìa ngoài tâm có, làm sao thành duy thức ? Câu hỏi này phù hợp ý luận chủ.
2- Chính đáp: Luận Duy Thức nói: “Nương nơi thức biến hiện, chẳng phải riêng thật có”.
Giải thích: Đây y cứ tự tông của Đại thừa chính giải là căn cứ vào việc đã kiến lập thức thứ tám. Luận chủ nói: Bản chất sắc của năm trần chính là tướng phần của thức thứ tám, tướng phần chẳng lìa thức thứ tám cũng là duy thức.
3- Dụ đáp: Luận chủ nêu ví dụ đáp Tiểu thừa là nguyên do Thế Tôn kiến lập 12 xứ. Luận Duy Thức nói: “Như ngăn đoạn kiến nói có hữu tình tương tục”, chỉ là mật ý của Phật phá chấp ngã của chúng sinh là một hợp tướng tạm nói có 12 xứ khiến cho chúng sinh quán pháp 12 xứ đều không có ngã bèn vào ngã không. Kế đó nương vào duy thức quán tất cả các pháp đều không thật có tác dụng giữ gìn thắng tính, trừ pháp chấp, thành tựu pháp không. Tiểu thừa lại hỏi đã nói tất cả các pháp đều thật không có tác dụng gìn giữ thắng tính thành tựu pháp không quán thì thể của duy thức ấy đâu phải là không...T4,Q63.sách trg 80 docx trg 10
THIÊU ĐỐT
kinh Pháp Hoa nói: “Tham đắm những gì ưa thích là bị thiêu đốt; do tâm tham đắm bèn thấy cung điện cháy rụi; ngộ là vô thường thì lửa tham dục tắt mất; vì thế liền thấy cung điện nghiễm nhiên như cũ. Bởi Mục Liên là tăng thượng duyên nên Đế Thích tự thấy bị lửa thiêu nhưng thiên đường vốn không bị cháy vì thế biết mê ngộ chỉ là tâm, ẩn hiển do mình, những sự thấy nghe khác đều như thế.
Lại kinh nói: “Điều ác từ tâm sinh trở lại làm giặc hại chính mình, như sắt sinh rỉ sét tiêu hủy chính nó, cây nhiều hoa quả làm gãy cành nhánh, rắn ngậm nọc độc trở lại tự hại thân, cho nên biết từ vô thỉ đến nay ngày đêm trong 24 oai nghi đều đem tâm chấp tâm, lấy thức duyên thức, rốt cùng trong ngoài không có một trần để đối trị, để thủ xả”. Than ôi, người thế tục mê muội điên đảo trái giác hợp trần, hằng ngày tâm hành tổn hại kẻ khác, lợi ích bản thân, đều là tổn hại chính mình, chẳng hay chẳng biết; chưa tận cùng ý chỉ này thì vật ngã khó quên, thấu rõ tông này thì tự tha không còn nương gá.Tập 4,Q 64,docx trg 14, sách trg 110
NHƯ & TRÍ
Thanh Lương Ký giải thích: Nói Phật không tâm có trí, thành cái lỗi trái nhau. Tâm vương tối thắng còn nói là không, trí không có chỗ nương thì sao có thể đứng một mình, như không có vua làm gì có bầy tôi! Nay trước hết riêng hội hai tông, sau cùng hiệp lại hai tông. Trước hội với pháp tính tông ý nói tâm là như, trí là như trí, lìa tâm không có như thì biết có như là đã có tâm. Huống chi dụng của thể gọi là như trí, thể của dụng là chân như. Như hạt minh châu, thể hạt châu là như, sự chiếu sáng là trí, đâu có thể còn như mà mất tâm.Tập2, Q33,sách trg462,doxc trg22
Ví như hạt châu pha lê và hạt châu như ý, hình loại giống nhau, nhưng hạt châu pha lê chỉ là không mà chẳng thể tuôn báu, hạt châu như ý vừa không vừa tuôn báu. Pha lê không có báu để dụ cho thiên không, như ý tuôn báu để dụ cho trung đạo, đây y cứ hữu vô hợp làm tục, bỏ ngụy hiển chân. Thể kinh cũng như hạt châu như ý. T4,Q65 Docx trg 13,sách trg 129
THƯỜNG - LẠC - NGÃ - TỊNH
Kinh Đại Niết-bàn nói: “Nhất thật đế thì không có hữu vô, hữu vô không hai nên gọi là nhất thật đế. Lại nhất thật đế gọi là không hư ngụy, lại nhất thật đế không có điên đảo, lại nhất thật đế chẳng phải ma thuyết, lại nhất thật đế gọi là thường, lạc, ngã, tịnh. Thường lạc ngã tịnh không có không trung giả sai biệt, sai biệt thì là hai, hai nên chẳng phải nhất thật đế. Nhất thật đế tức không, tức giả, tức trung, không hai không khác nên gọi là nhất thật đế. Nếu có ba thứ khác nhau tức là hư ngụy; pháp hư ngụy chẳng gọi là nhất thật đế; vì không có ba thứ sai khác nên gọi là nhất thật đế. Nếu sai khác tức là điên đảo, điên đảo chưa phá thì chẳng phải nhất thật đế. Không có ba thứ sai biệt nên không điên đảo, không điên đảo nên gọi là nhất thật đế.
Khác biệt chẳng gọi là nhất thừa, ba pháp chẳng khác biệt đầy đủ viên mãn gọi là nhất thừa, ngồi nơi cao rộng trang nghiêm các báu nên gọi là nhất thật đế, ma tuy chẳng chứng không giả sai biệt mà có thể thuyết không giả sai biệt. Nếu không giả trung chẳng khác biệt thì ma chẳng thể nói; ma chẳng thể nói gọi là nhất thật đế. Nếu không giả trung khác biệt gọi là điên đảo, chẳng khác biệt gọi là chẳng điên đảo. Chẳng điên đảo nên không phiền não, không phiền não nên gọi là tịnh. Không phiền não thì không nghiệp, không nghiệp nên gọi là ngã. Không nghiệp nên không báo, không báo nên gọi là lạc. Không báo thì không sinh tử, không sinh tử nên gọi là thường. Thường lạc ngã tịnh gọi là nhất thật đế”. T4,Q65 Docx trg 11,sách trg 127
CÓ & KHÔNG
Hoàn Nguyên Tập ghi: “Bậc Thánh có hai thứ dụng tâm: một là chẳng thấy tất cả vật đều không, chỉ thấy nơi không mà chẳng thấy tất cả vật; hai là thấy tất cả vật đều không, thấy tất cả đều có mà chẳng trụ nơi có, thấy tất cả đều không mà chẳng trụ nơi không. Cùng chiếu hữu vô phân biệt rõ ràng mà không động niệm như gương sáng thấy các sắc tượng hiện rõ trong đó, dụng tâm cũng thế, nhận được diệu tính liền khởi chiếu soi thấy tất cả, biết rõ mà không chỗ biết, thấy rõ mà không chỗ thấy; không bỏ cái thấy thông thường mà nhận ra tính thấy; đã thường không gián đoạn, rõ ràng soi thấu mười phương trong sạch không tỳ vết, trong ngoài tròn sáng bao trùm pháp giới, cũng gọi là con mắt không chướng ngại của Tỳ-lô-giá-na, tròn đầy mười phương soi thấy tất cả cõi Phật, chính là nghĩa này. Do đó người đạt đạo thấy nghe chẳng rơi vào năng sở; đã chẳng phải có thấy cũng chẳng phải không thấy, chỉ cần chẳng sinh hai tướng, thường hợp chân không. Thế nên toàn sắc là mắt, thường thấy sắc mà không duyên; toàn mắt là sắc, luôn thấy mà vô ngã. Vì sắc là cảnh sở duyên, mắt là căn năng duyên, nay chính là mắt nên không duyên. Lại mắt là cái ta hay thấy, nay toàn là sắc thì lúc đang thấy là phi ngã, thì sắc tâm không hai, năng sở chẳng khác. T4,Q65 Docx trg 01,sách trg 113
THƯỜNG - LẠC - NGÃ - TỊNH
Như kinh Niết-bàn ghi: “Ngoại đạo nói: Theo như Cù-đàm nói vô ngã và ngã sở, vì sao lại nói thường lạc ngã tịnh ? Phật bảo: Này thiện nam, ta cũng chẳng nói lục nhập và lục thức trong ngoài thường lạc ngã tịnh. Ta chỉ nói diệt trừ sáu thức được sinh ra từ lục nhập trong ngoài gọi đó là thường; vì thường nên gọi đó là ngã; có thường và ngã nên gọi là lạc; vì thường, ngã, lạc nên gọi là tịnh”. Tập 4, Q 67, Docx trg 05,sách trg 183
THỨC SANH - THỨC DIỆT
Nay suy tìm thức đã không thì phân biệt tự diệt; phân biệt đã diệt thì cảnh giới không nương tựa, như nương vào nước sinh ra sóng, nhờ gương hiện bóng. Không có nước thì sóng chẳng khởi, không có gương thì bóng chẳng sinh, cho nên biết chẳng liên quan đến pháp hữu, pháp vô mà chỉ là thức sinh, thức diệt. Kinh Kim Cang Tam-muội có kệ:
Pháp từ phân biệt sinh
Lại từ phân biệt diệt
Diệt là phân biệt diệt
Pháp ấy chẳng sinh diệt.
Thông đạt như thế, căn cảnh rỗng rang, tự giác đã rõ thì có thể lợi tha, vì thế kinh có bài kệ:
Cứu cánh lìa hư vọng
Vô nhiễm như hư không
Pháp thân diệu thanh tịnh
Lặng lẽ ứng tất cả.Tập 4, Q 66,docx trg 20, sách trg 171
NHÂN DUYÊN - TỰ NHIÊN ĐỀU HÍ LUẬN
...Lại từ thức thứ tám biến khởi tướng phần của căn thân, khí thế gian, bốn đại trong ngoài làm tự tướng.
Lại do vọng niệm khởi cố nhận biết, do đó vạn tượng sum la hiện rõ ràng. Nếu có thể xét cùng nguyên nhân, thể hội cội gốc đều là tính tướng của tự tâm. Mọi thứ đẹp, xấu, yêu, ghét đều do ý thức so đo phân biệt làm thành. Đã biết căn do phải giữ gìn chính trí, chỉ cần trừ sự soi lại tính giác thì một niệm chẳng sinh, tự nhiên tâm cảnh đều không, trước sau cùng bặt, cho nên biết tính của bảy đại chân thật viên dung, mỗi mỗi đại đều trùm khắp pháp giới đều là một thể, như bảy khối băng dùng lửa nung tan thành nước; cũng như tấm lưới nhân-đà-la đồng mà chẳng đồng, như nước và băng khác mà chẳng khác, cho đến năm ấm, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới v.v... đều đầy khắp pháp giới, mỗi một vi trần cũng đầy pháp giới, mỗi một mảy lông cũng đầy pháp giới, mỗi một thân tâm cũng đầy khắp Như Lai tạng. Như trong biển Hương Thủy Phật thường vì các Bồ-tát nói tất cả pháp, chẳng thấy tướng Bồ-tát, chẳng thấy tướng tà sư, chẳng thấy tướng sinh trụ dị diệt, cho nên đều hợp chân không, đầy khắp thực tế; như nói lông rùa, sừng thỏ, sóng nắng, thành càn-thát-bà, chỉ có tên gọi không có thật thể. Như các căn của thấy nghe; ấm, nhập, cảnh của danh sắc cũng chỉ có tên đều không có thật thể. Nay đem việc thế gian đều biết lông rùa hư dối dễ hiểu phá trừ cái chấp danh sắc hiện tại hư vọng khó hiểu, trở lại giống như lông rùa không thể chấp trước, thì biết tất cả cảnh giới bị chấp từ trước đến nay đều do thức biến, đều từ tưởng sinh; lìa thức không có trần cảnh, thức lặng thì các trần cảnh cũng lặng; lìa tưởng không có pháp, tưởng không thì các pháp cũng không, nhân duyên và tự nhiên đều thành hý luận, hiểu biết phân biệt nào có gốc ngọn, chỉ là ý nghĩ và lời nói không có thật thể. Thông đạt như thế liền ngộ những việc trước là sai, hoàn toàn không thể đợi hoa đốm trong hư không kết thành quả; nắm lấy vật trong chiêm bao muốn giữ kỹ, nhìn cây trụi không còn tưởng là quỉ, sợi dây không thật thì mất ý tưởng con rắn, con nai khát nước không còn chạy theo sóng nắng, con vượn ngưng đùa ánh trăng, bèn lặng nghĩ rỗng lòng như cánh chim bay bổng giữa hư không; tùy duyên dưỡng tính như thuyền không lướt sóng; dứt được cái cũ chẳng tạo cái mới, sống với chân thật mà hợp đạo. Như vậy tính của năm ấm, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới, bảy đại v.v... chẳng phải xưa nay tự nhiên vô nhân mà có, chẳng phải từ ngày nay hòa hợp nhân duyên sinh ra, chỉ do thức tâm phân biệt kiến lập. Nay phá thức tính này thì tính của bảy đại cho đến tất cả pháp đều không, như tìm dòng được nguồn, bắt giặc được tướng thì vô minh, oán đối, sinh tử, ma quân ứng niệm đều tiêu, như nước sôi rót trên băng. Chỉ có Như Lai tạng diệu trạm minh tâm, tính chân viên dung khắp mười phương cõi, như đầm mùa thu sóng lặng chứa cả hư không, mây sáng trời quang không một vật T 4,q 69,docx trg 21,sách trg 263
SANH - DIỆT- ĐI - ĐẾN
kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo A-nan: Ông vẫn chưa rõ tất cả các tướng huyễn hóa phù trần ngay chỗ ấy sinh, theo chỗ ấy diệt; huyễn vọng thuộc về tướng, tính chân của nó là thể sáng suốt của tính giác nhiệm mầu, như thế cho đến năm ấm, sáu nhập, từ 12 xứ đến 18 giới, nhân duyên hòa hợp hư vọng gọi là sinh, nhân duyên biệt ly hư vọng gọi là diệt. Ông chẳng thể biết sinh, diệt, đến, đi vốn là tính chân như nhiệm mầu, thường trụ, diệu minh, bất động, tròn khắp của Như Lai tạng. Trong tính chân thường ấy không thể tìm được sinh tử, đến đi, mê ngộ. Cho nên trước hết phải soi thấu tâm cảnh phân minh sau đó tiêu dung dứt sạch tâm cảnh. Như Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa nói: “Trong kinh Hoa Nghiêm dạy người quán sát hoặc tâm, hoặc cảnh.
Có bài tụng:
Muốn biết tâm chư Phật
Phải quán trí tuệ Phật
Trí Phật không chỗ nương
Như hư không thênh thang.
Đây là dạy quán tâm Phật.
Có bài tụng:
Nếu ai muốn biết cảnh giới Phật
Nên tịnh tâm ý như hư không.
Đây là dạy quán cảnh Phật.
Có bài tụng nói về không tâm cảnh:
Pháp tính vốn không tịch
Không chấp cũng không thấy
Tính không chính là Phật
Chẳng thể suy lường được
Không chấp là không cảnh
Không thấy là không tâm.
Lại tụng:
Nếu ai muốn được trí Như Lai
Nên lìa tất cả vọng phân biệt
Hữu vô thấu rõ đều bình đẳng
Chóng làm bậc thầy của trời người.
Đây là không còn tâm cảnh vậy.
Người tu hạnh Bồ-tát còn tâm cảnh nên quán chiếu như trên, cho nên kinh có bài tụng:
Biết vọng vốn tự chân,
Liền thấy Phật thanh tịnh.
Lại nói:
Tâm, Phật và chúng sinh
Ba thứ không sai biệt”.T 4,q 69,docx trg 22,sách trg 265
TRÍ TÍNH CHẲNG HOẠI
Luận Khởi Tín nói: “Tất cả tướng tâm thức chính là tướng vô minh, cùng với bản giác chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải hoại, chẳng phải chẳng hoại. Như nước biển với sóng chẳng phải một, chẳng phải khác. Sóng do gió động, chẳng phải tính nước động; nếu gió dừng sóng liền mất, chẳng phải tính nước diệt. Chúng sinh cũng thế, tự tính thanh tịnh tâm do gió vô minh xao động khởi sóng thức, như vậy ba việc đều không có hình tướng chẳng phải một, chẳng phải khác. Nhưng tâm tính thanh tịnh là gốc của động thức, lúc vô minh diệt động thức diệt theo, trí tính chẳng hoại. T 4,Q 74, docx trg 5, sách trg 385
THÂN TRUNG HỮU
Hỏi: Địa vị cuối cùng của thân trung hữu đều khởi ái thọ sinh chăng ?
Đáp: Ở địa vị trung hữu, thức thứ sáu trước tiên khởi ái nhuận sinh, còn chấp thủ kết sinh làm chỉ có thức thứ tám. Nếu là trung hữu nam thì duyên vào mẹ khởi ái sinh dục tâm, nếu là trung hữu nữ thì duyên vào cha khởi ái sinh dục tâm. Do khởi hai thứ tâm luyến ái ấy liền kết hợp thân mình với cảnh yêu thích, rồi rỉ chảy nước bất tịnh dẫn đến thai tạng chấp làm thân của mình, sau đó liền tâm sinh hoan hỉ và thân trung hữu lập tức lặn mất, thọ lãnh thân sinh hữu. T 4,Q 74, docx trg 17, sách trg 402
Tổng báo và biệt báo trong tám thức thuộc thức nào ?
Đáp: Người xưa giải thích: Tổng báo chỉ thuộc thức thứ tám, vì thức thứ tám sinh khởi đầu tiên, bảy thức sắc tâm trước đều nương nơi thức thứ tám. Thức thứ tám liên kết với bảy thức sắc tâm trước làm chỗ nương, được gọi là tổng báo. Biệt báo tại sáu thức trước thọ báo sai biệt chẳng đồng gọi là biệt báo. Tổng báo cố định chẳng thông thuận hiện đời này, thọ chỉ là thuận sinh đời sau thọ. Biệt báo thì chẳng cố định, gồm cả đời này đời sau đều thọ.T4,Q75,docx trg 1,sách trg 406
Việc này chỉ mình ta biết
Kinh Đại Bát-nhã ghi: “Phật dạy: Hoặc mộng hoặc thức vẫn phải ở trong sự thấy nghe hiểu biết có giác tuệ chuyển, do đây khởi nhiễm, hoặc khởi tịnh. Nếu không có sự thấy nghe hiểu biết thì không có giác tuệ chuyển, cũng không có nhiễm tịnh. Cho nên biết mộng tỉnh duy thức, nhiễm tịnh do tâm, tiền hiền hậu học lấy đây làm tông, ngàn kinh muôn luận đều qui hướng về”.
Kinh Lăng-già có bài kệ:
Chúng sinh và bình chậu
Tất cả cảc hình tướng
Trong ngoài tuy chẳng đồng
Tất cả từ tâm khởi.
Chỉ cần một niệm chẳng sinh, các duyên tự dứt. Cho nên nói: “Một niệm tâm chẳng sinh, sáu căn đều không lỗi”. Lại nói: “Nhất tâm chẳng sinh, muôn pháp không lỗi”. Hiện tại chán ghét sinh tử tùy theo sự suy nghĩ, tùy theo sự tạo tác, bỏ vọng, bỏ thân, nghiệp quả luôn mới. Nếu có thể rõ sinh vô sinh, biết vọng vô vọng một niệm tâm lặng, muôn lự đều dứt. Như nói sợ bóng, sợ dấu càng chạy càng gần, ngồi dưới bóng cây dấu mất bóng lặn, là biết ngộ tâm liền thôi, không còn thuật nào khác. Như Tổ sư nói: “Tất cả do tâm, tà chính tại ta; chẳng nghĩ một vật chính là bản tâm, người trí có thể biết không có hạnh nào khác”. Do đó Đức Bổn Sư nói: “Việc này chỉ mình ta biết”.T4,Q75,docx trg 17,sách trg 429
TẬP KHÍ
kinh Hoa Nghiêm ghi: “Này Phật tử, Bồ-tát ma-ha-tát có mười thứ tập khí. Những gì là mười ? Đó là bồ-đề tâm tập khí, thiện căn tập khí, giáo hóa chúng sinh tập khí, kiến Phật tập khí, ư thanh tịnh thế giới thọ sinh tập khí, hạnh tập khí, nguyện tập khí, ba-la-mật tập khí, tư duy bình đẳng pháp tập khí, chủng chủng cảnh giới sai biệt tập khí. Nếu chư Bồ-tát an trụ pháp này liền vĩnh viễn xa lìa tất cả phiền não tập khí, được đại trí tập khí của Như Lai, chẳng phải tập khí trí. Cho nên biết hai nghiệp nhiễm tịnh, hai môn thăng trầm đều sinh từ huân tập, chẳng phải do vô nhân mà được, cần phải siêng tu bạch nghiệp tịnh pháp, luôn luôn huân tập, niệm niệm công phu, tự thành diệu quả. Do đó, trong kho tám thức của mỗi chúng sinh đều có đủ chủng tử mười pháp giới, vốn tự đầy đủ chẳng phải mới sinh; tuy thường nội huân nhưng phải nhờ ngoại duyên huân phát. Nếu nghe thập ác sẽ huân phát chủng tử ba đường ác; nếu nghe ngũ giới, thập thiện sẽ huân phát chủng tử trời người; nếu nghe tứ đế, thập nhị nhân duyên sẽ huân phát chủng tử Nhị thừa; nếu nghe lục độ sẽ huân phát chủng tử Bồ-tát; nếu nghe nhất thừa sẽ huân phát chủng tử chư Phật, đều tùy theo chỗ tập khí thành thục sâu đậm mà phát khởi. Hiện nay phần nhiều là tập khí của chủng tử tam đồ, rất ít chủng tử trời người, huống chi chủng tử Phật thừa! Nhưng lúc địa ngục giới hiện hành, chủng tử Phật cũng chẳng mất, chỉ là chuyển đổi lâu dài; ngày nay đã ở cõi trời người thì cần phải nỗ lực thường gần gũi thiện tri thức, ưa thích lắng nghe nhất thừa, nội ngoại tư huân một đời thành tựu. T4,Q76,docx trg 13, sách trg 448
SANH -- TỬ
Kinh Đại Tập ghi: “Một niệm của mỗi người đều đầy đủ mười hai nhân duyên”. Tùy theo một cảnh một niệm không nơi nào chẳng đủ 12 nhân duyên. Như mắt thấy sắc, chẳng gọi là vô minh, sinh yêu ghét gọi là hành, tâm ý trong đó gọi là thức, sắc đi cùng thức gọi là danh sắc, lục xứ sinh tham gọi là lục nhập, sắc đối trước mắt gọi là xúc, lãnh nạp gọi là thọ, vướng víu nơi sắc gọi là ái, tưởng nhớ sắc tướng gọi là thủ, niệm sắc tâm khởi gọi là hữu, tâm sinh gọi là sinh, tâm diệt gọi là tử; cho đến ý tư pháp cũng như thế. Một ngày một đêm thường khởi bao nhiêu niệm, mỗi niệm dệt mười hai nhân duyên làm thành sáu loài sinh tử vô cùng. Thế nên sinh tử vô thể, toàn là Như Lai tạng, đệ nhất nghĩa tâm, mê ngộ thăng trầm hoàn toàn không thật có T4,Q77,docx trg 01,sách trg 455
NGHIỆP ÁI PHẬN TRONG ,PHẬN NGOÀI
Kinh Thủ Lăng Nghiêm ghi: “Tức thì A-nan và các đại chúng bạch Phật: Bạch Thế Tôn, nếu chân tâm diệu minh chân tịnh xưa nay cùng khắp viên mãn như thế, cho đến bản tính chân như của đất liền, cỏ cây, các loài máy động là chân thể thành Phật của Như Lai. Thể tính của Phật chân thật, tại sao lại có các đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, tu-la, người, trời. Bạch Thế Tôn, những đường này xưa nay tự có hay là do tập khí hư vọng của chúng sinh sinh khởi ra ?
Bạch Thế Tôn, như tỳ-kheo ni Bảo Liên Hương giữ Bồ-tát giới, lén lút hành dâm, lại nói càn rằng hành dâm không phải giết người, không phải trộm cắp, không có nghiệp báo. Vừa phát ra lời này, trước hết nơi nữ căn sinh ra ngọn lửa hồng lớn, dần dần thiêu đốt từng đốt, từng đốt xương, sau đó đọa vào địa ngục Vô Gián.
Như đại vương Lưu Ly, tỳ-kheo Thiện Tinh; Lưu Ly giết họ hàng Cù-đàm, Thiện Tinh vì nói càn tất cả các pháp đều rỗng không mà thân đọa vào địa ngục A-tỳ.
Các địa ngục ấy là có chỗ nhất định hay là tự nhiên khi các người kia gây nghiệp thì mỗi người chịu riêng ? Xin Phật rủ lòng đại từ khai ngộ cho kẻ mê muội, khiến cho tất cả chúng sinh trì giới nghe nghĩa quyết định, vui mừng tôn trọng kính cẩn giữ gìn không phạm.
Phật bảo A-nan: Hay thay! Lời hỏi này khiến cho các chúng sinh chẳng bị tà kiến. Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.
A-nan, tất cả chúng sinh vốn là chân tính thanh tịnh, nhân những vọng kiến mà có tập khí hư vọng sinh ra, vì thế chia ra có phận trong và phận ngoài.
A-nan, phận trong là ở trong phận của chúng sinh, nhân các ái nhiễm phát khởi vọng tình, tình chứa mãi không thôi có thể sinh ra nước ái. Thế nên chúng sinh tâm nhớ thức ăn ngon thì nước miếng chảy ra; tâm nhớ người trước hoặc thương, hoặc giận thì trong con mắt lệ tràn; tham cầu của báu thì trong tâm phát ra nước bọt ái, toàn thân đều trơn sáng; tâm nghĩ đến việc dâm dục thì nam căn, nữ căn tự nhiên dịch khí chảy ra. A-nan, các ái đó tuy khác nhau nhưng kết quả tuôn chảy thì đồng; thấm ướt không lên được, tự nhiên theo đó mà sa đọa, đây gọi là phận trong.
A-nan, phận ngoài là ở ngoài phận của chúng sinh, nhân các khát ngưỡng phát khởi các hư tưởng; tưởng chứa mãi không thôi, có thể sinh ra các thắng khí. Thế nên chúng sinh tâm giữ cấm giới, toàn thân nhẹ nhàng trong sạch; tâm trì chú ấn, con mắt nhìn uy dũng nghiêm nghị; tâm muốn sinh lên cõi trời, chiêm bao thấy bay lên; hướng tâm nơi cõi Phật, Thánh cảnh thầm hiện ra, phụng sự thiện tri thức tự xem thường thân mạng. A-nan, các tưởng đó tuy khác, nhưng nhẹ nhàng cất lên thì đồng; cất bay không chìm xuống, tự nhiên vượt lên, đây gọi là phận ngoài”.T4,Q78,docx trg 12, sách trg 494
ĐƯƠNG XỨ LÀ ĐẠO TRÀNG
học nhân hỏi hòa thượng Bách Trượng: Đối với tất cả cảnh làm thế nào được tâm như gỗ đá ? Hòa thượng đáp: Tất cả các pháp vốn chẳng tự nói thị, phi, cấu, tịnh, cũng không có tâm trói buộc người; chỉ vì người tự hư vọng chấp trước tạo tác bao nhiêu kiến giải, sinh bao nhiêu thứ yêu ghét; chỉ cần rõ các pháp chẳng tự sinh, đều từ sự điên đảo của chính mình chấp tướng mà có, biết tâm với cảnh vốn chẳng đến nhau là đương xứ giải thoát; mỗi mỗi pháp, mỗi mỗi tâm là đương xứ tịch diệt, đương xứ là đạo tràng. T4,Q78,docx trg 16, sách trg 499
Ý NGHIỆP
Phật hỏi Ni-kiền-tử: Ông đã từng nghe chúng sinh trong ba nước Ma-đăng-già v.v... tại sao chết là do thân nghiệp giết hay là do ý nghiệp giết ?
Ni-kiền-tử thưa: Cù-đàm, trước kia tôi từng nghe tâm sân của tiên nhân dùng ý nghiệp giết hại chúng sinh ấy.
Phật nói: Do đây thành lập nghĩa “ngã”, ba cõi duy tâm, không có thân nghiệp và khẩu nghiệp, vì sao ? Như người đời nói giặc đốt núi rừng, xóm làng, thành ấp mà chẳng nói lửa đốt; nghĩa này cũng vậy, chỉ nương nơi tâm nghiệp ấy được thành. Cho nên nói kệ:
Tâm là gốc các pháp
Các pháp, tâm hơn hết
Lìa tâm không các pháp
Duy tâm, tên thân miệng.
Luận Thành Thật nói: “Nếu lìa tâm có nghiệp chẳng phải chúng sinh cũng nên có tội phước. Như gió thổi lở núi, não hại chúng sinh thì lẽ ra gió có tội; nếu thổi hương hoa vào chùa tháp thì lẽ ra gió có phước, nhưng không phải vậy, cho nên biết lìa tâm không có tội phước. Văn này chứng minh tội phước do tâm, không có thân nghiệp, khẩu nghiệp. Thân khẩu nghiệp chỉ có tên gọi mà thật sự là do ý nghiệp.T4,Q78,docx trg 18, sách trg 502
VÀO VIÊN GIÁC
kinh Viên Giác ghi: “Bấy giờ Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Nhãn: Này thiện nam, Bồ-tát mới học và chúng sinh đời mạt pháp muốn cầu tâm viên giác của Như Lai cần phải chính niệm xa lìa các huyễn, trước hết y theo hạnh xa-ma-tha của Như Lai, giữ gìn cấm giới, ở yên nơi đồ chúng, ngồi trong tịnh thất luôn nghĩ rằng: Thân tôi do bốn đại hòa hợp, đó là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, não đều thuộc về địa đại; nước mắt, nước mũi, mủ, máu, mồ hôi, đàm, tinh khí, đại tiện, tiểu tiện đều thuộc về thủy đại; hơi nóng thuộc về hỏa đại, chuyển động thuộc về phong đại. Nếu bốn đại lìa nhau, thân hư dối này sẽ ở chỗ nào; như thế biết thân này rốt ráo vô thể, lấy sự hòa hợp làm tướng, đồng với huyễn hóa. Bốn duyên giả hợp, vọng có sáu căn; sáu căn bốn đại trong ngoài hợp thành, vọng có duyên khí tích tụ trong đó, dường như có duyên tướng tạm gọi là tâm.
Này thiện nam, tâm hư vọng này nếu không, sáu trần chẳng thể có, bốn đại tan rã không có một trần để được, trong đó duyên trần đều trở về tan diệt, rốt ráo không có duyên tâm để thấy.
Này thiện nam, vì thân huyễn của chúng sinh diệt nên tâm huyễn cũng diệt; tâm huyễn diệt nên trần huyễn cũng diệt, trần huyễn diệt nên huyễn diệt cũng diệt, huyễn diệt diệt nên phi huyễn chẳng diệt, ví như lau gương bụi nhơ hết ánh sáng hiện.
Này thiện nam, nên biết thân tâm đều là huyễn cấu, tướng cấu dứt sạch mười phương thanh tịnh. Này thiện nam, ví như hạt châu ma-ni ánh hiện ngũ sắc, tùy phương đều hiện, người ngu si thấy ma-ni thật có năm sắc. Này thiện nam, tính viên giác thanh tịnh hiện nơi thân tâm tùy loại ứng hiện, những người ngu si nói viên giác thanh tịnh thật có như thế, tự tướng của thân tâm cũng như vậy, vì thế chẳng thể xa lìa huyễn hóa.
Giải thích:
Trong hạt châu không có sắc ngũ phương, nhờ ánh sáng ánh hiện; trong tính không không có thân của năm đường (ngũ thú), tùy nghiệp mà hiện. Mê chân là chấp trong hạt châu có thật sắc, muội tính là chấp trong tính có thân hư dối. Pháp dụ rõ ràng, chân ngụy có thể kiểm nghiệm.T4,Q79,docx trg 26, sách trg 547
TIẾNG ĐÀN MUỐN CÓ
Kinh Đại Niết-bàn ghi: “Phật bảo: Thiện nam, như ông nói nhất-xiển-đề có Phật tính tại sao chẳng ngăn tội địa ngục. Này thiện nam, trong nhất-xiển-đề không có Phật tính. Thiện nam, ví như có vị vua nghe âm thanh réo rắc của đàn không hầu mà sinh tâm đắm nhiễm yêu thích không thể xa lìa, bèn bảo các đại thần: Âm thanh vi diệu ấy từ đâu phát ra ?
Đại thần đáp: Từ đàn không hầu phát ra.
Vua bảo: Hãy đem âm thanh ấy đến đây!
Khi ấy đại thần cầm đàn không hầu đặt trước nhà vua và nói: Đại vương nên biết, đây là âm thanh ấy.
Vua nói: Không hầu phát âm thanh đi!
Nhưng chiếc đàn không hầu vẫn lặng thinh; bấy giờ đại vương liền giựt đứt dây đàn, âm thanh vẫn không phát ra; rồi nhà vua lại xé nát từng mảnh gỗ trên chiếc đàn để tìm âm thanh cũng không được. Khi ấy, nhà vua nổi giận bảo đại thần: Sao các ông lại nói dối.
Đại thần tâu: Cách thức nắm lấy âm thanh chẳng phải như thế, cần phải có các duyên phương tiện thiện xảo thì âm thanh mới phát ra”.
Phật tính của chúng sinh cũng như thế, chẳng có nơi chốn, dùng phương tiện khéo léo mới thấy được,T4,Q80,docx trg 15 ,sách trg 569
UẤT-ĐẦU -LAM-PHẤT & CON RÁI CÁ
Uất-đầu-lam-phất dùng trí thế tục chế phục lậu hoặc hạ địa, được phi tưởng định, có đủ năm phép thần thông. Khi ấy, vua kính trọng mời ông đến cung điện cúng dường; mỗi khi đến hoặc đi, Uất-đầu-lam-phất đều nương thần thông đi đến cung vua nhận sự cúng dường. Một hôm vua bận đi tuần, sai ái nữ y theo nghi thức cũ cúng dường ông ấy, vương nữ cung kính lễ dạy dưới chân, Uất-đầu-lam-phất chạm phải tay nàng liền khởi dục giác khiến mất thần thông. Thọ thực xong, ông ta giả bộ bày kế, bảo vương nữ: “Ta xưa nay đi lại đều nhờ thần thông, người dân kính ngưỡng mà không thể thấy được ta. Nay ta dùng bữa xong, ý muốn đi bộ trở về để nhân dân được thấy ta”. Vương nữ cho là thật liền tiễn ông ta ra cổng thành để về núi. Đã mất thần thông, trong lòng buồn bã, ông tọa thiền trong rừng, chim chóc hót vang ồn ào làm cho ông chẳng thể nhập định nên ông dời đến bên bờ ao để nhập thiền, nhưng trong ao cá khuấy động, nhân đây ông nổi sân liền sinh khuể giác, phát lời nguyền độc ác: “Mong cho đời sau ta làm con rái cá có cánh để bắt chim trên cây, bắt cá dưới nước ăn thịt để trả thù, do việc này ông liền khởi hại giác. Khi ấy, Uất-đầu-lam-phất lại dời đến nơi khác, chuyên tâm tập thiền lâu ngày mới được định, y như trước chứng được phi tưởng tam-muội. Sau khi mạng chung, sinh lên cõi trời Phi tưởng thọ mạng tám vạn đại kiếp; mãn tám vạn đại kiếp ông thọ sinh vào cõi Dục làm con rái cá, còn gọi là con chồn bay để ứng với lời nguyền độc ác trước kia, bất cứ nơi nào dù dưới nước hay trên không nó đều ăn thịt tất cả loài vật. Cho nên kinh nói: “Dù đoạn trừ phiền não sinh lên cõi trời Phi tưởng vẫn trở lại đọa vào ba đường ác”. T5,Q81,docx trg 03,sách trg 08
BẤT BIẾN TÙY DUYÊN
Hỏi: Ý nghĩa nhất tâm là môn tổng quát, pháp nghĩa khó rõ cần phải khai diễn, thế nào là pháp, thế nào là nghĩa ?
Đáp: Pháp vốn không sai, tùy nghĩa có khác; từ pháp sinh nghĩa, sai biệt khó rõ. Nhân nghĩa hiển pháp, nhất tâm dễ biết. Thiền Nguyên Tập dùng sự so sánh để giải thích hai môn pháp nghĩa, như vàng ròng nhờ người thợ kim hoàn mà trở thành vòng xuyến v.v... Tính vàng hẳn không thể biến thành đồng, sắt. Vàng là pháp, bất biến tùy duyên là nghĩa. Giả sử có người hỏi vật gì bất biến, vật gì tùy duyên; chỉ cần đáp: Vàng, để dụ cho một tạng kinh luận, nghĩa lý chỉ nói về tâm. Tâm là pháp, tất cả là nghĩa. Cho nên luận nói: “pháp là tâm chúng sinh”; kinh nói: “Vô lượng nghĩa là từ một pháp sinh”. Vô lượng nghĩa bao quát chỉ có hai nghĩa: một bất biến, hai tùy duyên. Các kinh chỉ nói tâm này tùy theo duyên mê ngộ thành cấu tịnh phàm Thánh v.v...; cũng chỉ nói tâm này lúc cấu tịnh v.v... vốn bất biến, thường tự tịch diệt, chân thật như như v.v...
Giả sử có người hỏi pháp gì bất biến, pháp gì tùy duyên ? Chỉ đáp: tâm. Bất biến là tính, tùy duyên là tướng; nên biết tính tướng đều là nghĩa trên nhất tâm. Nay hai tông tính tướng trái nghịch nhau, vì bởi chẳng biết chân tâm. Mỗi khi nghe chữ “tâm” thì cho rằng chỉ là tám thức, chẳng biết tám thức chỉ là nghĩa tùy duyên trên chân tâm, cho nên ngài Mã Minh cho nhất tâm là pháp, hai môn chân như, sinh diệt là nghĩa. Luận nói: “Nương theo tâm này hiển bày nghĩa Ma-ha-diễn Tâm chân như là thể, tâm sinh diệt là tướng dụng. Tâm này chẳng hư vọng nên gọi là chân, chẳng biến đổi nên gọi là như, chẳng giữ lấy tự tính nên tùy duyên, vì tùy duyên nên thành vô lượng nghĩa. Lại do bất biến nên có thể tùy duyên, do tùy duyên nên mới có thể bất biến. Vì sao ? Nghĩa là nếu biến đổi tự thể thì lấy cái gì tùy duyên, như không có nước làm sao thành sóng, cho nên biết nhất tâm bất động, nghĩa khắp Hằng sa, tuy khắp Hằng sa mà đều là nghĩa nhất tâm.T5,Q81,docx trg 14,sách trg 24
NHƯ LẠI TẠNG = THANH TỊNH
Thế nên Văn-thù-sư-lợi giáo hóa đồng tử Thiện Tài hiện ba nghìn thế giới đầy trong đài quán sát, Thiện Tài vừa thấy bỗng nhiên biến mất, thế giới đều trống không, liền hỏi chỗ đến đi của thế giới. Ngài Văn-thù đáp: Từ nơi đến mà đến, rồi trở về chỗ đi mà đi; tức là đến từ pháp giới thanh tịnh, rồi trở về pháp giới thanh tịnh. Cho nên biết các pháp được sinh ra là duy tâm hiển hiện, sinh diệt đến đi đều là Như Lai tạng, đây là cùng tích đạt bản, T5,Q83,docx trg 13,sách trg 74
NGHIỆP HẾT
Lại có người hỏi hòa thượng Đại Châu: Làm sao biết được nghiệp hết ? Đáp: Tâm hiện tiền thông cả đời trước đời sau, cũng như mắt thấy trước Phật sau Phật muôn pháp đồng thời.
Kinh nói một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, vì thành tựu nhất thiết trí. Đây là biết những gì sinh ra từ tâm đều không chân thật, như tâm mộng chẳng thật thì việc trong mộng cũng giả, thế gian đều biết có thể tin nhận sâu sắc. Thế nên lý nghiệp thiện ác đều tính không, chẳng hoại duyên sinh, luôn hợp diệu chỉ.
Lượng nói: Chính nghiệp là có pháp quyết định tức hữu tức không nên là tông. Nhân nói: Vì tức duyên trở thành tức vô tính. Đồng dụ nói: Như pháp thuật huyễn hóa sinh ra tức hữu chẳng ngại hư giả, chính nghiệp từ duyên sinh, không hữu chẳng ngại nhau vì thế biết muôn pháp từ biến kế tình sinh, chỉ có hư danh không có thật nghĩa.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Diệu giác lặng lẽ trùm khắp pháp giới, gồm cả mười phương đâu có phương sở, theo nghiệp phát hiện thế gian không biết mê lầm cho là nhân duyên và tính tự nhiên đều là tâm thức phân biệt đo lường, chỉ có ngôn thuyết không có thật nghĩa”.
Hàm thổ thập hư, hàm là nhất chân bất động ở trong Như Lai tạng; thổ là nương nơi phân biệt hư vọng tùy theo chỗ phát hiện, chỗ phát hiện nhỏ nhặt đều là tự tâm sinh, từ phân biệt có. Nếu biết chỗ phát hiện hư vọng thì liền ngộ chân không; chân không hiện tiền làm sao còn ngôn thuyết ?T-C-L ,T5,Q85,docx trg 7,sách trg 118
ý và ý thức gọi là chúng sinh
Nhân duyên sinh diệt là tâm, ý, ý thức của chúng sinh chuyển. Đây thuyết minh nghĩa gì ? Nghĩa là muốn hiển bày sở y năng y sai biệt. Thế nào là sở y ? Đó là tâm bản giác. Thế nào là năng y ? Đó là chúng sinh. Nói chúng sinh là y cứ vào pháp gì ? Đó là ý và ý thức. Tại sao ý và ý thức gọi là chúng sinh ? Vì ý và ý thức sinh ra do các pháp nhiễm tập hợp nên gọi là chúng sinh, không riêng có tự thể, chỉ nương vào tâm làm thể thế nên nói nương tâm mà chuyển. Lại nói: Tướng vô minh chẳng lìa tính giác, chẳng có thể hoại; như trong biển lớn tướng gió, tướng nước chẳng rời bỏ nhau. Biển lớn dụ cho thức a-lại-da, nước dụ cho tâm bản giác, gió dụ cho căn bản vô minh, bất giác có thể khởi động chuyển thức lự tri như ngọn gió, sóng chuyển động dụ cho các thức hí luận dời đổi vô thường. Tướng nước tướng gió chẳng rời bỏ nhau dụ cho chân vọng giúp nhau cùng vận hành hợp chuyển, nghĩa là vì tâm bản giác chẳng tự khởi, phải nhờ sức vô minh mới khởi; vì căn bản vô minh chẳng tự chuyển, phải nhờ sức chân tâm mới chuyển. Như nước không tự dấy sóng, phải nhờ sức gió; gió chẳng tự hiện tướng động, phải nhờ sức nước mới hiện ra tướng động. Kinh nói: “Trong biển cả phiền não có Như Lai viên mãn tuyên nói lý thật tướng thường trụ; trong thật tính bản giác có chúng sinh vô minh dấy khởi vô lượng vô biên sóng phiền não”.T4,Q85,docx trg 14,sách trg 129
LỜI NHẮC
Ngày nay khuyên khắp học sĩ mười phương, tất cả hậu hiền, chỉ mong đạo phú nhân bần, tình mỏng đức dày, lấy pháp làm bạn, lấy trí làm trước, vận dụng lòng từ tu thân, khai thị chúng sinh làm nhiệm vụ, làm người chủ pháp thí không sẻn tiếc gia phong, không thắc mắc nào chẳng từ mọi hoài nghi đều giải quyết thì giẫm lên đường Phật đi mới khỏi cô phụ bản tâm, diệu hạnh luôn mới, chí đạo vẫn thế. Do đó Chứng Đạo Ca ghi:
Con dòng Thích miệng xưng bần
Thân thật nghèo, đạo chẳng nghèo
Nghèo nên thân thường mặc áo rách
Đạo thì tâm chứa báu vô giá
Báu vô giá dùng vô tận
Lợi vật ứng thời không sẻn tiếc
Trong thân có đủ ba thân, bốn trí
Tám giải, sáu thông tâm địa ấn.T5,Q93,Docx trg 16
NIỆM KHỞI MÀ TRÔI NỔI
Vĩnh Gia Tập nói:
Xa-ma-tha tuy tịch mà thường chiếu,
Tỳ-bà-xá-na tuy chiếu mà thường tịch,
Ưu-tất-xoa phi chiếu phi tịch,
Chiếu mà thường tịch nên tục tức chân,
Tịch mà thường chiếu nên chân tức tục.
Phi tịch phi chiếu nên im lặng nơi Tỳ-da.
Cho nên biết nếu rõ niệm vốn chẳng khởi, thường ở nơi đẳng trì; chẳng biết cảnh do niệm sinh, trở lại ngộ chân tâm cũng động. Vì thế kinh Viên Giác nói: “Mây bay trăng chuyển; thuyền đi bờ dời”, chẳng biết mây vọng tưởng tự bay, trăng thật làm gì động; đâu biết thuyền phan duyên thường trôi, bờ giác chẳng dời. Như bài tựa trong Viên Giác Sớ nói: “Tâm vốn là Phật, do niệm khởi mà trôi nổi; bờ bến thật sự chẳng dời, do thuyền trôi mà dong ruỗi”.T5,Q95,trg 02,sách trg 378
có thể lấy thân để giác ngộ bồ-đề không
Kinh Đại Phương Quảng Như Lai Bí Mật Tạng ghi: “Khi ấy, đại đức A-nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn, Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương tự đem thân mình cúng dường Như Lai, phải dùng thân gì giác ngộ đạo bồ-đề. Khi ấy các vị Bồ-tát trong thất hoa đồng hỏi ngài A-nan: Ý ngài nghĩ sao có thể lấy thân để giác ngộ bồ-đề không ? Ngài chẳng nên nghĩ như thế, nên dùng thân tâm giác ngộ bồ-đề.
Ngài A-nan bảo: Các thiện nam, nếu chẳng phải thân tâm giác ngộ bồ-đề thì phải dùng cái gì để giác ngộ bồ-đề.
Chư Bồ-tát nói: Đại đức A-nan, thật tính của thân là thật tính bồ-đề, thật tính bồ-đề là thật tính của tâm, thật tính của tâm chính là thật tính của tất cả pháp. Giác thật tính của tất cả pháp nên gọi là giác bồ-đề.T5,Q95,trg 7,sách trg 384