Bài mới ! Ngày 13 tháng 10, năm 2025
Trong Phật giáo thì có nói tới sáu căn: mắt tai mũi lưỡi thân và ý căn. Căn là cơ sở vật chất giúp một người hay chúng sanh nhận thức được cảnh. Như nhãn căn nó bao gồm con mắt và hệ thống thần kinh thị giác làm cho ta thấy được quang cảnh, màu sắc. Nhờ nhãn căn mà người ta thấy cảnh sắc, cũng vậy qua tai tức nhĩ căn, qua mủi - tỉ căn; qua lưỡi - thiệt căn, qua thân thể và qua ý căn mà người ta nhận thức các cảnh. Ý căn là các giác quan thần kinh qua đó mà có ý thức hay tư tưởng, suy nghĩ phát sanh.
Ý căn được Đức Phật nói ra sau? Trích trong cuốn Abhidhammattha Saṅgaha Vi Diệu Pháp Toát Yếu. [Nārada Mahā Thera, Việt dịch Kim Khánh] ghi như sau: “ Bộ Dhammasaṅgani không đề cập đến sắc pháp nầy. Trong sách Atthasālīni, danh từ hadayavatthu đuợc giải thích là cittassa vatthu, căn cứ từ nơi đó tâm phát sanh. Rõ ràng Ðức Phật không nhất quyết chỉ nơi nào là căn môn của tâm như Ngài đã chỉ rõ khi đề cập đến các giác quan khác. Vào thời của Ngài, phần đông người ta tin rằng quả tim là ý căn và thuyết nầy hiển nhiên được kinh Upanishads hỗ trợ. Nếu muốn, Ðức Phật đã chấp nhận lý thuyết rất phổ thông thời bấy giờ ấy, nhưng Ngài không nói đến. Trong bộ Paṭṭhāna, bộ sách đề cập đến Duyên Hệ Tương Quan, Ngài nhắc đến căn cứ của thức (ý căn) bằng những danh từ gián tiếp như "yaṁ rūpaṁ nissāya" "tùy thuộc nơi sắc pháp ấy", mà không quả quyết xác nhận rūpa (sắc) ấy là trái tim (hadaya) hay bộ não. Nhưng theo quan niệm của các nhà chú giải như Ngài Buddhaghosa và Anuruddha, thì ý căn nhất định là tim. Nên hiểu biết rằng Ðức Phật không hề chấp nhận hoặc bác bỏ lý thuyết rất phổ thông vào thời xa xưa ấy, cho rằng ý căn là tim.” Như vậy ta thấy Đức Phật chỉ nói là ý căn chứ không nói là ý căn ở bộ não hay là ở tim hay nơi nào khác vì đức Phật ngài không muốn đi quá xa các sự hiểu biết và quan niệm của con người đương thời, vì đức Phật giảng dạy nói ra thì chỉ đưa tới tranh luận không có kết thúc vì khả năng thấy biết của con người rất hạn chế, không thể hiểu nổi. Như trong kinh Lá Rừng Simsapa “ Rồi Thế Tôn lấy tay nhặt lên một ít lá Simsapà, rồi bảo các Tỷ-kheo :
-- "Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, cái gì là nhiều hơn, một số ít lá Simsapà mà Ta nắm lấy trong tay, hay lá trong rừng Simsapà?"
-- "Thật là quá ít, bạch Thế Tôn, một ít lá Simsapà mà Thế Tôn nắm lấy trong tay, và thật là quá nhiều lá trong rừng Simsapà."
-- "Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thật là quá nhiều, những gì Ta đã thắng tri mà không nói cho các Ông! Thật là quá ít những gì mà Ta đã nói ra! Nhưng tại sao, này các Tỷ-kheo, Ta lại không nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, những điều ấy không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho Phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Ta không nói lên những điều ấy. cũng vậy những gì đã biết rõ mà không giảng dạy cho quý vị thật là quá nhiều; còn những gì mà ngài đã giảng dạy thật là quá ít. Tại sao ngài không giảng dạy tất cả những điều ấy ? Bởi vì có những điều không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho đời sống thanh cao, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, ngài không giảng dạy những điều ấy” [Việt dịch HT Minh Châu].
Ngày nay Khoa học có lẽ phần nào làm sáng tỏ cách thức Đức Phật dạy.
Người đương thời vào thời đức Phật cho ý thức hay tư tưởng phát xuất từ ý căn là ở tim. Và cho tới gần cuối thế kỷ 20, phương tây họ cho rằng ý căn là ở não bộ ở trong đầu.
Trở lại nếu cho rằng ý căn ở trái tim thì quan niệm này lại không đúng với trường hợp một người không có trái tim như Craig Lewis ở Texas, hai bác sĩ Dr. Billy Cohn and Dr OH 'Bud' Frazier ở bệnh viện tim ở Texas Heart Institute in Houston in March 2011 đã lấy bỏ hoàn toàn trái tim của Lewis ra mà thay thế bằng bộ phận bơm máu hoạt động như trái tim và bệnh nhân 55 tuổi này sống được 5 tuần và sau đó chết vì gan và thận bị hư hoại. Hay như chàng trai 25 tuổi người Mỹ Stan Larkin ở Michigan, từ năm 2014 phải đeo balo chứa trái tim nhân tạo 24/7 suốt 555 ngày cho tới khi được ghép tim vào 9 May 2016. Do đó ta thấy Đức Phật không xác định vì quan điểm này chưa chính xác, và ngài cũng không phủ nhận vì nó chỉ đúng một phần.
Các dữ liệu khoa học đã cho một số nhà khoa học kết luận nói rằng bộ phận tiêu hóa được ví như một « bộ não thứ hai », với số lượng tế bào thần kinh tương đương với hệ tủy sống, nó hoạt động không phải từ mệnh lệnh thần kinh trung ương não bộ mà có tánh chất độc lập và tương tác hai chiều với não bộ, hệ thống thần kinh bộ tiêu hóa cũng tác động tới suy nghĩ cảm xúc của con người và điềm báo. Do đó nay ta biết người Việt chúng ta hay nói "Nghĩ bụng", "tốt bụng", "vừa lòng" hay "phải lòng" ai đó, hay "ghi lòng, tạc dạ"... là không phải là không có lý. Và chúng ta có biết nhiều về các câu chuyện Phương tây, phương đông về sự cảm nhận của người mẹ khi con gặp nạn thì không phải là trái tim hay ở bão bộ mà mà là ở bụng. Thật là có lý khi đức Phật Ngài đã không chấp nhận hay đã bác bỏ thuyết mà các du sĩ cho rằng Ý căn là ở là tim. Đó là quan niệm của các du sĩ thời đó, vì sao? vì nó chỉ đúng một phần. Ngài chỉ nói "tâm nương vào sắc nào, sắc ấy là sắc ý vật". Với cách nói này của Đức Phật thì đúng, chính xác , vì Ngài biết có những ý thức tư tường suy nghĩ phát sanh do từ ở con tim trước làm duyên cho các thứ khác theo sau, có những cái do từ hệ thống tiêu hóa mà phát sanh trước và có những cái phát xuất từ não bộ trong đầu hay từ một sắc pháp khác ở Thân.
Tại sao một số nhà khoa học ngày nay người ta nghiên cứu ý thức ở trái tim? Nó phát xuất từ việc cấy ghép nội tạng nhất là ghép tim. Những người ghép tim họ có những chuyển biến tâm lý nhận thức kỳ lạ mà trước khi ghép tim không thấy có. Ở thập niên 90 thì tất cả bênh nhân ghép nội tạng khi có chuyển biến tâm lý kỳ lạ họ đi gặp bác sĩ thì lúc đó đều được cho rằng đó là tình trạng cảm nhận vật lý sau khi ghép không có gì lạ, và họ trấn an bệnh nhân là không có gì đáng quan tâm. Vì đây là cái chưa từng được nghiên cứu rõ bởi giới y khoa, bác sĩ tâm lý cũng chưa có được trang bị kiến thức nào để hiểu ngoải các dữ liệu báo cáo lâm sàng rời rạc của các bệnh nhân ở các bệnh viện, ở các phòng khám khác nhau. Với sự cấy ghép ngày càng nhiều và dữ liệu cũng tăng theo nên khiến cho một số bác sĩ y khoa, bác sĩ giải phẩu và nhà tâm lý học chú y và lập nhóm nghiên cứu riêng của mình và qua thời gian nghiên cứu họ thấy rằng trái tim hoạt động như là một não bộ tức là nó có tính chất độc lập rất cao với hệ thần kinh trung ương bộ não, nó không phải chỉ nhận mệnh lệnh một chiều xuống từ bộ thần kinh não bộ ở đầu mà là sự tương tác hai chiều, và trái tìm ảnh hưởng lớn tới hoạt động ý thức của não bộ ở đầu. Trái tim nó có bộ nhớ riêng của nó, cũng như “bộ não tiêu hóa” nó tác động lên suy nghĩ cảm xúc, nhận thức của con người và điềm báo.
Do hệ thống thần kinh tim nội tại có cả chức năng ghi nhớ ngắn hạn và dài hạn do đó ta thấy ngày nay qua các phát hiện như vậy mà ta hiểu được phần nào một số hiện tượng khi một người phật tử hay một người thắc mắc, như thay tim ghép của một người khác vào cơ thể, trước đây thập niên 90 khi thay tim người nhận tim có sự thay đổi lớn trong nhận thức và cảm xúc thì khi điều này trong bệnh viện họ không có đề cập tới, không dám nói tới rõ rệt, nhưng nó gây thắc mắc cho nhiều người và khiến các nhà khoa học, nhà tâm lý liên kết nghiên cứu và tìm hiểu đúc kết thành các hồ sơ bệnh án về trường hợp này và các phát hiện gần đây ta có thấy có lý khi người ghép tim có thay đổi về tâm sinh lý khi có được trái tim mới của người khác trong cơ thể mình, giải thích được phần nào sự biến chuyển tâm lý cảm xúc cùng nhận thức của người được ghép tim. Thí dụ câu chuyện mà tôi trực tiếp biết vì con của một người Phật tử được ghép tim lúc khoảng hơn 10 tuổi với trái tim của một cậu bé 14 tuổi ở Chicago, sau đó thì cậu bé thay đổi tánh tình thích nhạc rap, và có cái tánh cách của một cậu bé da đen mới lớn, sau đó gia đình mới tìm hiểu và biết trái tim ghép là của cậu bé người da đen. Hay câu chuyện của cô Claire Sylvia được ghép tim và Phổi vào 1988 được kể trong cuốn sách “A Change of Heart” [tác giả: Claire Sylvia với William Novak] . Ngay sau khi ghép tim thì sở thích thay đổi về tánh tình cũng như sở thích món ăn, thích ăn những món mà trước kia rất ghét do cô là một vũ công cổ điển chuyên nghiệp nên cách ăn rất kỹ lưỡng, có cảm tưởng như có một người khác nữa ở trong mình, và hay nằm mơ về một người con trai tên Tim L. mà cô biết chắc đó là người hiến nội tạng cho mình và trong giấc mơ cô ấy học những điều về người hiến tặng khiến cô ấy tự mình đi tìm kiếm và liên lạc với gia đình anh ta, cuối cùng gặp sau này thì đúng thật là người đó một chàng trai 18 tuổi chết trong một tai nạn xe mô tô. Hay câu chuyện của Bill Wohl ở Arizona, được ghép tim Feb. 22, 2000 từ Michael Brady, là người hiến tim 36 tuồi có nghề nghiệp là Diễn viên đóng thế ở Hollywood chết trong một tai nạn nghề nghiệp khi đóng phim. Cho nên từ một người thượng gia 53 tuổi thừa cân, chỉ biết làm việc hăng say vì tiền lại thay đổi không còn ham tiền, và chỉ làm bán thời gian, thời gian còn lại là một nhà hoạt động từ thiện đây là lời của ông : “ Tôi thì trước kia là một doanh nhân, tôi không có thời gian cho bất cứ điều gì khác. Tôi chắc chắn không giúp đỡ ai cả. Nhưng ngay sau khi tôi có được trái tim của Brady, tôi đã hứng thú tham gia vào các hoạt động giúp đỡ những người phía sau tôi ” . từ một người ít chơi thể thao thành một một nhà thể thao chuyên nghiệp thích đua xe đạp, đi dã ngoại và thích nghe những bản nhạc mà Brady đã từng thích.
Do đó ta thấy cũng có lý khi những tử tù vì những tội ác ghê rợn người ta không cho hiến nội tạng, vì sự cấy ghép từ những tử tù có xác xuất lớn là nó ảnh hưởng tiêu cực tới người nhận nội tạng.
Và cái từ trường của trái tim nó mạnh hơn từ trường của não bộ rất nhiều. Nó lớn hơn tới 50 lần so với từ trường của điện não tạo ra. Do trái tim có chức năng như bộ não và sự giáo tiếp liên lạc với bộ não trong đầu qua: 1) Các xung thần kinh (nerve impulses). 2) Hệ sinh hóa hormone. 3) Lý sinh (thông qua sóng áp suất ) . 4) Từ trường điện. Sự giao tiếp hai chiều giữa trái tim và não bộ ở đầu rất nhiều và trái tim thực sự gửi nhiều tín hiệu hơn đến não, và sau đó não sẽ gửi đến trái tim của bạn. Và cái từ trường của trái tim nó mạnh hơn từ trường của não bộ rất nhiều. Nó lớn hơn tới 100 lần so với từ trường của điện não tạo ra. Cái từ trường này không chỉ bao bọc mọi tế bào của cơ thể mà còn mở rộng ra mọi hướng vào không gian xung quanh chúng ta. Từ trường của tim có thể được đo cách cơ thể tới gần 1.8m với dụng cụ đo đạc từ nhạy cảm hiện giờ.
Do đó ta có thể hiểu được phần nào tại sao một người cảm nhận được sự thiện cảm, ác cảm, cảm xúc, suy nghĩ của một người khác nào đó trong một không gian gần. Hay tại sao thấy việc ngồi thiền chung ở thiền đường thấy tốt hơn, việc ngồi thiền chung một nhóm giúp ích cho việc hành thiền nếu tổng số là từ trường tốt, tích cực, còn không thì một từ trường xấu cũng ảnh hưởng ít nhiều tới việc hành thiền.
Do đó tại sao ngày nay con người chúng ta có cảm nhận trực giác thua kém hơn con người ở các thế kỹ vì điện từ trường do dòng điện nhà, do từ trướng của các dụng cụ điện, do sóng vô tuyến, từ trường do con người tạo ra. Do đó mà có lý khi người ta khuyên không nên sống gần dây điện cao thế, hay họ khuyến cáo xử dụng điện thoại di động liên tục thường xuyên thì nó Ảnh hưởng tiêu cực đến cảm xúc, nhận thức, Làm suy giảm hệ thống miễn dịch.
Để kết thúc xin trích dẫn một quan điểm cá nhân của Cố Tiến sĩ Candace Pert, một nhà dược học tại Đại học Georgetown tin rằng tâm trí không chỉ nằm trong não mà còn tồn tại khắp cơ thể: "“ Tâm trí và cơ thể giao tiếp với nhau thông qua các hóa chất được gọi là peptit. Những peptit này được tìm thấy trong não cũng như trong dạ dày, trong cơ và trong tất cả các cơ quan chính của chúng ta. Tôi tin rằng bộ nhớ có thể được truy cập ở bất kỳ đâu trong mạng peptit / thụ thể. Ví dụ: một bộ nhớ liên quan đến thức ăn có thể được liên kết với tuyến tụy hoặc gan và các hiệp hội như vậy có thể được cấy ghép từ người này sang người khác ”.: