Khổ hạnh là một lối sống gắn liền với những người tu hành. Những người tu hành đi tìm chân lý cuộc sống, do vậy mà không có cuộc sống như người bình thường. Từ thời xa xưa ở Ấn độ đã có ghi chép về các ẩn sĩ keśis tóc dài trong Ṛgveda, các vị ẩn sĩ keśis là các vị xuất gia sống ẩn dật khỏi xả hội, sống bằng cách hái lượm là chính (ăn rau quả rừng), được biết là các vị ẩn sĩ tu tập thiền định hoặc các nhóm sa môn vrātyas được tìm thấy trong Atharvaveda, sa môn vrātyas là những vị xuất gia, đi lang thang (không an trú một nơi) không sống theo hệ thống tế tụng Vệ đà, họ sống khổ hạnh và có những phép tu tập riêng thường tập trung ở xứ Ma Kiệt đà (Magadha). Do lối sống của ẩn sĩ, sa môn là để khắc phục ham muốn trần tục và tự do không muốn bị ràng buộc bởi vật chất, do vậy nên việc sinh hoạt, ăn uống ngủ nghỉ không có như người bình thường và do đó là “khổ” theo cái nhìn của người dân bình thường. Và vì là người tu, nên lối sống “khổ hạnh” đều có mặt trong mọi tôn giáo. Và tùy theo quan điểm ở mỗi giáo phái mà hình thức “khổ hạnh” khác nhau. Và trong chính mổi đạo giáo lại có những "khổ hạnh" khác nhau. Đơn giản mà nói ngay cả việc không ăn chiều và không hành dâm trong đạo Phật thì đối với người đời thì họ cho là "khổ", với người đời tâm còn thích hưởng dục thì đó là "khổ hạnh".
Như với quan điểm của giáo phái lõa thể Ni-kiền tử, thì do cái quan niệm về Nghiệp của phái Ni kiền tử, giáo phái này quan niệm Nghiệp là có số lượng, có hạn lượng - pamāṇa, hẳn hoi, nghiệp là vi trần vật chất, là có số lượng, và chỉ khi tiêu trừ hết nghiệp thì mới giải thoát, nên từ đó có lối sống khổ hạnh là hình thức tiêu trừ nghiệp cũ, không tạo nghiệp mới. Do vậy "khổ hạnh" là một pháp tu, với giáo phái này, thực hành càng khổ thân nhiều thì càng tốt. Đây là nhóm có ảnh hưởng lớn tới các sa môn đương thời về “khổ hạnh”. Và được người dân ngưỡng mộ, kính trọng vì sự khắc khổ của giáo phái này. Tâm lý này cũng vậy cho tới ngày nay, vì người dân bình thường không ai chấp nhận người gọi là “đi tu” mà sống giống như người bình thường tại gia được.
Với đạo Phật thì ngài chủ trương “trung đạo” của một vị sa môn, tránh xa hai cực đoan một là hưởng dục như người đời , hai là hành thân ép xác. Như được ghi trong bài kinh Chuyển Pháp Luân . Việc 13 hạnh đầu đà trong đạo Phật, thì sao? Việc này bắt đầu bằng việc các vị sa môn đã có sống lối sống như vậy, và khi hiểu và chấp nhận lời dạy của Phật về giải thoát, thì họ xin theo gia nhập tăng đoàn, và do đã sống với lối sống khổ hạnh từ trước thí dụ như ngài Mahā Kassapa được Phật nói là vị đệ nhất về quan điểm “khắc khổ” - Dhutavāda , của sa môn, ghi trong Tăng chi bộ kinh, phẩm người tối thắng. Nên khi là vị tỳ khưu ngài Mahā Kassapa vẫn giữ lối sống khắc khổ của một vị sa môn, vì nó không có làm trở ngại cho Tăng chúng (nói chung là thời đó các tỳ khưu đa phần sống độc cư hay theo nhóm cùng sở thích tu tập), và sự khổ hạnh của 13 pháp đó cũng không trái nghịch với lời dạy của Phật, cũng như sự khổ hạnh về ăn ở, y áo trong 13 hạnh đầu đà thì cũng không là cực đoan với người tu hành thời đó. Dù vậy, ta thấy Phật không có khuyến khích các tỳ khưu khác phải sống như vậy, bằng chứng là khi ngài Devadatta (Đề bà đạt đa), đề nghị Phật buộc các tỳ kheo phải chỉ sống bằng thức ăn đi khất thực (Chống lại việc tỳ khưu nhận lời dùng bữa ăn tại nhà thí chủ). Hay tỳ khưu phải luôn luôn ở trong rừng dưới cội cây , hang đá tự nhiên, hay Tỳ khưu phải luôn luôn mặc y phấn tảo - paṃsukūla, do chính mình lượm các mảnh vải mà có (xem pháp cú 287). Và Phật đã từ chối lời thỉnh cầu như vậy, và bảo điều này phụ thuộc vào cá nhân, vị tỳ khưu nào muốn thì thực hành. Những yêu cầu lối sống khắc khổ như vậy, ta thấy là do lối sinh hoạt đã bắt đầu từ thời xa xưa của các vị sa môn, nhưng tới thời Phật do kinh tế, văn hóa, và sự hình thành các đô thị lớn, đã phát triển lớn mạnh, thì lối sống khắc khổ như vậy không cần thiết vì sự giác ngộ không phải là do sự khắc khổ, với đa số người thì đó lại là một sự trở ngại, vì sự giải thoát là do có “Minh” do trí tuệ, không phải là do hành động khắc khổ của thân. Vì ta thấy nhiều vị thánh cư sĩ trong đạo Phật (được Phật công nhận), họ là những người tại gia có đời sống gia đình.
Người tu hành muốn giải thoát thì phải làm cho phát sinh trí tuệ giải thoát, mà tuệ giải thoát đó phát xuất từ sự thực chứng được các Hành là vô thường là khổ, là vô ngã. Với một vị phàm phu, khi tâm an trú kiên cố nơi định sắc giới, hay định vô sắc thì có thân được an lạc, tâm hạnh phúc thoát tục và như vậy thì Phật nói chỉ là hiện tại lạc trú, tâm tịch tĩnh an lạc hạnh phúc, chớ chưa phải là giải thoát trong đạo của bậc Thánh , tức là đạo Phật, thì huống chi một vị phàm phu tu khổ hạnh với cái thân đau khổ, mà nếu không biết cách tu tâm thì chỉ có khổ thêm khổ, như Phật dạy trong kinh chuyển Pháp luân, không có đạt được mục đích.
Thời hiện đại cũng có nhiều người tu khổ hạnh, ở mọi tôn giáo. Qua câu chuyện dưới đây được ghi chép đây (còn có biết bao nhiêu câu chuyện nữa mà không ghi chép), ta thấy một ví dụ cho sự tu khổ hạnh mà không biết tu tâm để có tuệ giải thoát.
Trích từ báo Lao động, người viết TÂM AM - LÃNG QUÂN, tháng 10 2018.
Ông từng chọn đường tu khổ hạnh với 9 năm ròng trên núi Cấm (An Giang), 7 tháng trời sống chỉ bằng... nước lã, lại thêm những ngày bất động trên tít ngọn cây khiến bao người dân hiếu kỳ, tò mò kéo đến xem.
Nhưng rồi sau gần hai mươi năm tu hành hạnh khổ, sau 17 năm tịnh khẩu không giao tiếp với thế gian, ông đạo Hoàng đã suýt chết.
Người dân phải dùng ròng rọc kéo chiếc lồng lên ngọn cây, khênh ông đạo cứng quèo như cái xác khô vào lồng để hạ ông xuống mặt đất mà cứu chữa.
Cái sự “giác ngộ” của ông đạo Hoàng có điều gì vừa chua xót, vừa kỳ khôi: Thấy đường tu của mình không có kết quả, ông “tái sinh” với việc tập ăn, tập đi và tập nói trở lại đúng như một đứa trẻ.
Bây giờ ông đạo Hoàng đã trở thành “ông Hoàng đậu hũ”, thong dong với dăm người làm công, ngày hai bận đạp xe chở đậu hũ ra chợ cho các cháu bán. Thỉnh thoảng hứng chí ông lại nhảy lên xe khách đi khắp nơi thăm bè bạn, chơi chán thì về. Cuộc sống không điện thoại, thơ thới tự do tự tại bây giờ của ông có lẽ còn gần với “Đạo” hơn là cái quãng 17 năm tu – 17 năm hành xác kinh hoàng.
Không biết có phải là số phận đẩy đưa hay không mà bây giờ ông Nguyễn Thái Hoàng (SN 1950) sống ngay gần chùa Vĩnh Tràng nổi tiếng. Từ tổ 9 (ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, TP. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) nơi ông sinh sống sang cồn Phụng - là chốn tu tập đầu tiên của ông, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre - cũng chưa đầy 10km.
Thế nhưng sau khi trở lại cuộc đời sau gần 20 năm tu hành hạnh khổ, ông Hoàng chưa một lần trở lại cồn Phụng giữa mênh mông sóng nước, cũng chưa một ngày vào chùa Vĩnh Tràng tụng kinh, niệm Phật. Bởi quãng đường hai chục năm dằng dặc ấy là ký ức hãi hùng khiến ông không bao giờ muốn nhắc lại, dù rằng trong tâm trí, ông chẳng thể nào quên.
Cuộc sống của ông Thái Hoàng bây giờ còn gần Đạo hơn cái thời hai chục năm ròng ông tu sai pháp.