Xây dựng bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả
theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Ngày 07/02/2025
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc mà còn là nhà kiến tạo vĩ đại. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Người tuyên bố: “Công việc phá hoại xong rồi. Nay bước đầu công việc dọn dẹp, sắp đặt, giữ gìn, kiến thiết”(1) và việc đầu tiên phải kiến thiết là xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân, một nền hành chính phục vụ nhân dân. Điều cần nói là, ngay từ khi bắt tay vào việc tạo dựng chính thể mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hướng tới mô hình chính quyền tinh gọn, hiệu quả và việc chấn chỉnh biên chế đã được Người sớm đặt ra.
Cùng với thời gian và do nhiều lý do, hệ thống công quyền ở nước ta ngày càng trở nên cồng kềnh, kém hiệu quả. Yêu cầu đổi mới nói chung và cải cách hành chính nói riêng đòi hỏi chúng ta phải tinh lọc, sắp xếp lại bộ máy nhà nước và cả hệ thống chính trị. Muốn đạt mục tiêu đó, chúng ta phải tìm trong di sản Chủ tịch Hồ Chí Minh sự khích lệ về tinh thần cũng như sự chỉ dẫn về phương hướng hành động.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả
Với quan điểm bộ máy nhà nước là công cụ hữu hiệu để phục vụ nhân dân chứ không phải là gánh nặng cho nhân dân, ngoài đặc tính cách mạng, nhân văn và pháp lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến tính hiệu quả, tinh gọn của bộ máy hành chính nhà nước.
Thứ nhất, xác định tiêu chí của một bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả làm căn cứ cho công tác thực tiễn.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết đó phải là bộ máy ít bộ - ngành, ít tầng nấc trung gian, ít cán bộ nhưng vẫn thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu luôn hết sức gọn nhẹ. Ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám chỉ gồm 15 thành viên; Chính phủ cách mạng lâm thời sau Cách mạng Tháng Tám vẫn gồm 15 thành viên với 13 bộ; Chính phủ liên hiệp kháng chiến năm 1946 chỉ gồm 12 thành viên và 10 bộ. Trả lời câu hỏi của các phóng viên, vì sao công việc bộn bề mà chính phủ liên hiệp chỉ có 10 bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì nước mình nhỏ nên không cần nhiều bộ”(2). Song song với việc thiết lập bộ máy hành chính Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ đạo xây dựng ủy ban nhân dân các cấp theo phương châm gọn nhẹ về tổ chức, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ. Người nói rõ: “ủy ban nhân dân (làng, huyện, tỉnh, thành phố) là hình thức Chính phủ trong các địa phương... ủy ban có từ 5 đến 7 người”(3). Luôn đề cao nguyên tắc tinh gọn, Ban thanh tra đặc biệt - tiền thân của Ban Thanh tra Chính phủ hiện nay - do Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập vào tháng 11-1945 cũng chỉ gồm 2 người là cụ Bùi Bằng Đoàn và người thanh niên trẻ Cù Huy Cận; bộ phận giúp việc trực tiếp của Người trong kháng chiến chống Pháp chỉ có 8 người và sau năm 1954 cũng chỉ có hơn 10 người.
Ngoài đặc tính “ít mà tốt”, tính hiệu quả của bộ máy hành chính còn thể hiện ở khả năng tương tác giữa các bộ phận chức năng sao cho giữa họ vừa có sự phân định nhiệm vụ rõ ràng, vừa có sự phối hợp “ăn ý”. Với tư duy khoa học và lòng tôn trọng mỗi con người, mỗi công việc trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Tất cả mọi người, bất kỳ ở một chức vụ nào, cao hay thấp, to hay nhỏ, tất cả mọi người làm thành một bộ máy. Thiếu một người nào hay có một người không làm tròn nhiệm vụ là hỏng cả”(4). Tinh gọn tức là không có ai thừa ra trong bộ máy đó, đồng bộ tức là hoạt động của một người, một bộ phận sẽ tác động đến sự vận hành của cả một bộ máy, hiệu quả tức là ít người mà làm được nhiều việc - đó là quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả.
Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm đặt ra yêu cầu phải chấn chỉnh biên chế, sắp xếp lại bộ máy hành chính.
Với óc quan sát tinh nhạy, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận ra các biểu hiện đi ngược lại tiêu chí về bộ máy tinh gọn mà mình đã đặt ra. Vì thế, vào tháng 8-1951 - thời điểm mà bộ máy hành chính của ta nhìn chung còn nhỏ gọn, cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở giai đoạn ác liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố chủ trương “Thực hành chấn chỉnh biên chế, để bớt sự đóng góp cho dân và thêm lực lượng vào công việc tăng gia sản xuất”(5). Năm 1952, nói chuyện với cán bộ quân nhu, Người chính thức đưa ra khái niệm tinh giản bộ máy. Người nói: “Nói chung, các cơ quan đều phải tiết kiệm. Riêng cơ quan cung cấp tổ chức còn kềnh càng, thừa người, phải sắp xếp cho gọn gàng, hợp lý, mọi người đều có công việc thiết thực, những người thừa phải đưa đi chỗ thiếu, những người ở lại phải thi đua nâng cao năng suất của mình. Thế là tinh giản, tinh là đưa năng suất lên cao, làm cho mau cho tốt, giản là vừa phải, không kềnh càng, tránh hình thức”(6). Người nói rõ việc tinh gọn phải diễn ra trong toàn hệ thống chính trị chứ không chỉ trong các cơ quan hành chính: “Các cơ quan chính quyền và đoàn thể, các cơ quan kinh tế và các ủy ban, cần phải nâng cao năng suất, giảm bớt số người (tinh giản)... Vô luận thế nào cũng phải tìm đủ cách để biên chế các cơ quan lại”(7).
Như vậy, vấn đề giảm biên chế đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra một cách quyết liệt với mục tiêu không chỉ “cắt bỏ cơ học” lao động dôi dư mà còn là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Người nhìn nhận tác dụng của công tác giảm biên không chỉ ở góc độ kinh tế mà còn ở góc độ văn hóa và đạo đức khi nó buộc cán bộ phải hoàn thiện mình về mọi mặt, phải nâng mình ngang tầm nhiệm vụ để đáp ứng yêu cầu của tổ chức, mong muốn của nhân dân.
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hệ thống giải pháp hữu hiệu để xây dựng bộ máy hành chính tinh gọn, hiệu quả.
Theo phương châm “muốn lúa tốt phải diệt cỏ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm cách nâng cao tính tích cực của nhân tố con người và triệt tiêu những nguyên nhân làm nảy sinh những vấn đề tiêu cực trong công tác cán bộ. Cụ thể là:
Đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức công vụ, nâng cao quyết tâm sửa đổi lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức: Để có một bộ máy hành chính thực sự tinh gọn, hiệu quả, công tác tuyên truyền của Đảng và Nhà nước phải làm cho đội ngũ cán bộ, công chức ý thức sâu sắc về vai trò người đầy tớ và bổn phận phải hoàn thành tốt công việc của mình. Người luôn nhắc nhở cán bộ: “Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân”(8). Khi cán bộ công chức có đạo đức cách mạng, có kỷ luật lao động, có phương pháp làm việc tốt thì một người có thể làm công việc của hai người, một ngày có thể hoàn thành công việc của hai ngày, tức là tính hiệu quả của bộ máy hành chính sẽ được nâng lên.
Tổ chức bộ máy một cách khoa học, sử dụng nhân lực hiệu quả: Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự cồng kềnh của bộ máy công quyền nhiều khi là do cán bộ làm việc luộm thuộm, “thiếu óc tổ chức”. Vì thế, Người yêu cầu: “Tổ chức phải gọn gàng. Nhiệm vụ của mỗi bộ phận, mỗi người phải quy định rõ ràng. Các cấp và các cán bộ lãnh đạo phải giúp đỡ và đôn đốc thường xuyên, phải kiểm tra chặt chẽ”(9). Đặc biệt, người lãnh đạo phải biết “dụng nhân như dụng mộc”, tức là biết loại bỏ cán bộ hư hỏng như người thợ lành nghề biết loại bỏ gỗ mục, biết đặt con người vào đúng sở trường, biết kết hợp các loại cán bộ để họ bổ trợ cho nhau. Khi người lãnh đạo biết đặt người lao động vào vị trí “đắc địa” và biết động viên họ tự giác làm việc thì bộ máy dù gọn nhẹ nhưng vẫn hoạt động hiệu quả.
Đẩy lùi căn bệnh tư túng, bè phái, địa phương chủ nghĩa của đội ngũ cán bộ có chức, có quyền: Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, bộ máy hành chính “phình to” chủ yếu là do một số cán bộ có chức, có quyền đã tìm mọi cách “đem người tư làm việc công”(10). Căn bệnh địa phương chủ nghĩa cũng gây khó khăn cho công tác cán bộ vì cán bộ mắc căn bệnh này chỉ chăm chú đến lợi ích của địa phương mình. Tùy hoàn cảnh mà họ muốn giữ lại cán bộ tốt cho địa phương mình hoặc không chịu tinh giản biên chế ở đơn vị mình, gây cản trở cho sự điều tiết cán bộ trong toàn hệ thống. Nếu không đẩy lùi những căn bệnh này trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo thì bộ máy hành chính sẽ ngày càng đông mà không mạnh.
Sử dụng đội ngũ trí thức làm công tác tư vấn về những vấn đề mà họ am tường: Nhờ chủ trương đúng đắn này mà Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu tuy gọn nhẹ mà làm được rất nhiều việc. Đến mức, trước thành tựu của công tác lập pháp sau Cách mạng Tháng Tám, một số nhà nghiên cứu nước ngoài đặt câu hỏi: “tại sao một chính quyền của những người mới ở tù và mới ở trong rừng ra mà lại có thể sản sinh ra được một khối lượng khổng lồ những văn bản pháp luật, mà xét về chất lượng thì cũng không đến nỗi thua kém trình độ chung của thế giới lúc đó”(11). Sự kỳ lạ đó được lý giải bởi sự giúp đỡ, tư vấn của các chuyên gia về luật pháp. Điều tương tự cũng diễn ra ở mọi lĩnh vực khác của đời sống đất nước.
Phát huy vai trò của cơ quan Thanh tra Chính phủ: Cho rằng cơ quan thanh tra là bộ phận không thể thiếu trong bộ máy Chính phủ, nhiệm vụ của thanh tra không chỉ là chống tham ô, lãng phí mà còn chống quan liêu - căn bệnh làm cho bộ máy hành chính trở nên cồng kềnh, yếu kém, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao cho Ban Thanh tra quy chế đặc biệt là “tiên hành, hậu thuyết”, tức là có quyền “đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong ủy ban nhân dân hay của Chính phủ đã phạm lỗi rồi báo cáo Hội đồng Chính phủ sau”(12). Với quan điểm cán bộ thanh tra phải như cái gương cho người ta soi mặt. Gương mờ thì không soi được, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn những con người nổi tiếng chính trực, liêm khiết, như cụ Bùi Bằng Đoàn, Tôn Đức Thắng, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Lương Bằng vào chức vụ Trưởng ban Thanh tra Chính phủ. Người còn yêu cầu lãnh đạo các cấp tuyệt đối không được thao túng công tác thanh tra mà phải hợp tác để cán bộ thanh tra hoàn thành chức trách của mình. Nhờ đó, những căn bệnh “cố hữu” của Nhà nước phần nào được ngăn chặn.
Như vậy, khi bộ máy hành chính ở nước ta vẫn trong giai đoạn phải bổ sung và phát triển, khi đội ngũ cán bộ vẫn còn ít về số lượng và khá tốt về đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy nguy cơ “phình đại” của bộ máy hành chính quan liêu. Tiên lượng rõ cái thừa khi đang còn thiếu, cái xấu khi đang còn tốt, tìm ra cách thức ngăn chặn những căn bệnh còn trong giai đoạn manh nha... tất cả đã thể hiện tầm nhìn sâu rộng, sự nhạy cảm chính trị, tính quyết đoán trong công tác tổ chức và tấm lòng vì dân, vì nước của Người.
Vận dụng quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào việc giải quyết vấn đề tinh giản biên chế ở nước ta hiện nay
Kế thừa tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta nhiều lần đề ra chủ trương sắp xếp, kiện toàn hệ thống chính trị gắn với việc tinh giản biên chế. Tuy nhiên, kết quả trên thực tế đã ngược lại với mong muốn khi càng tinh giản thì bộ máy càng “phình to”. Tuy nhiên, cho đến nay, con số biên chế giảm đạt được vẫn rất khiêm tốn và chủ yếu do cán bộ nghỉ hưu trước tuổi chứ không phải do việc cơ cấu, tinh lọc lại bộ máy.
Tinh gọn bộ máy hành chính, tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thu hút những người có đức, có tài vào hoạt động công vụ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, cần thấu triệt và thực hiện đúng tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh gọn bộ máy hành chính theo những cách thức giải quyết vấn đề sau:
Thứ nhất, phải nâng cao nhận thức của toàn hệ thống chính trị về sự cần thiết phải tinh giản biên chế để tạo sự đồng thuận và quyết tâm hành động.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục. Công tác tuyên truyền phải làm cho toàn bộ cán bộ nhận thức rõ trách nhiệm về mục tiêu, quan điểm, ý nghĩa, yêu cầu của công tác, tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tinh giản biên chế với mục tiêu “giảm lượng, tăng chất”, “thà ít mà tốt” là nhiệm vụ rất quan trọng. Tuy nhiên, ngay cả khi cán bộ đã thấu tỏ sự cần thiết phải tinh giản biên chế nhưng lúc thực hiện thì ai cũng muốn có sự “du di, ưu tiên, đặc thù” ở đơn vị mình, với bản thân mình, còn chuyện tinh giản là ở chỗ khác, với người khác. Để khắc phục “độ vênh” giữa nhận thức và hành động, công tác vận động, tuyên truyền phải kiên trì và quyết liệt hơn nữa.
Thứ hai, phải nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ và kiên trì thực hiện đề án mô tả việc làm để làm căn cứ xác định biên chế phù hợp.
Do căn bệnh nể nang “dĩ hòa vi quý” theo phương châm “dễ người, dễ ta”, kết quả bình xét ở các đơn vị luôn “khả quan” và đồng đều. Vì thế, lúc này, cần khẩn trương xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá có khả năng định lượng cao và mang tính toàn diện: Bao gồm cả đánh giá trong và đánh giá ngoài, tự đánh giá, đồng nghiệp đánh giá, cấp trên đánh giá, cấp dưới đánh giá và quan trọng nhất là đối tượng phục vụ đánh giá. Nếu không khắc phục được tình trạng cào bằng, hình thức trong đánh giá thì việc tinh giản biên chế sẽ khó “đúng người, đúng việc”.
Việc xây dựng đề án vị trí việc làm và mô tả công việc một cách khoa học phải tiếp tục được đẩy mạnh, tức là phải từ chức năng, nhiệm vụ của đơn vị để xác định việc làm và từ việc làm mới “đẻ ra” số người lao động. Đề án vị trí việc làm hiện nay chính là trở lại nguyên tắc “có việc mới cần đến người, chứ không phải là có sẵn người nên phải tìm việc cho làm”(17) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra từ hơn nửa thế kỷ trước.
Khi đã có kết quả đánh giá và có đề án mô tả việc làm cụ thể thì phải tuyển dụng theo vị trí việc làm, phải đánh giá theo yêu cầu đối với từng vị trí công việc để sàng lọc cán bộ. Phải làm thật nghiêm túc để cán bộ, công chức nhận ra rằng: “Phải nỗ lực học tập và làm việc nếu anh không muốn phải nỗ lực tìm việc”. Xây dựng cơ chế thu hút người có tài năng, các chuyên gia trong các ngành, các lĩnh vực vào làm việc tại các cơ quan của Đảng, Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập; thực hiện chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ, công chức từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, nhà khoa học trẻ vào công tác trong các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị.
Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu và chuẩn hóa các văn bản quy định về cơ cấu tổ chức để làm cơ sở cho việc tinh giản biên chế.
Để việc giảm biên chế diễn ra theo đúng kế hoạch thì cấp trên phải “áp” chỉ tiêu cho người đứng đầu các cơ sở, kết quả giảm biên chế phải là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành công việc của người đứng đầu. Nếu người đứng đầu không đủ sự chính trực để vượt qua tình cảm và lợi ích cá nhân, không đủ bản lĩnh để vượt qua sức ép từ ai đó thì mọi quy trình đều bị bóp méo. Khi đó, đội ngũ công chức “có giản nhưng không có tinh” vì những người bị loại không phải là những người năng lực kém. Ngược lại, nếu người đứng đầu thực sự công tâm, khách quan và tinh tế trong xử lý công việc thì sẽ thuyết phục được mọi người, sẽ làm người đi, kẻ ở đều “tâm phục, khẩu phục”.
Thứ tư, tích cực chống tham nhũng để diệt trừ động cơ vụ lợi trong “cuộc chiến” biên chế.
Ai cũng biết rằng lương của cán bộ, công chức rất thấp nhưng nhiều người sẵn sàng bỏ ra một số tiền lớn để “chạy biên chế”. Cái gì đã làm cho biên chế nhà nước trở nên hấp dẫn như vậy? Câu trả lời là: Ngoài sự ổn định về công việc và thu nhập thì sự giàu có bất thường và uy quyền của một số quan chức đã tạo ra sức “hấp dẫn” của nghề “làm quan”. Do đó, chống tham nhũng một cách hiệu quả sẽ góp phần tinh giản bộ máy vì người ta không thấy sự “béo bở” ở đó nữa và không tìm mọi cách để “lọt” vào biên chế nữa.
Tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế không chỉ nhằm mục tiêu “giảm cơ học” để giảm chi ngân sách mà còn để nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, hướng tới nền hành chính chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả. Đây là vấn đề rất lớn, rất khó vì nó không đơn giản là công ăn việc làm của mấy triệu cán bộ, công chức mà là sự vận hành của cả hệ thống chính trị, không chỉ là số phận của những người công chức mà gắn theo đó là cuộc sống của từng ấy gia đình, nó không chỉ là bài toán kinh tế mà còn là đạo đức công vụ, sự tín nhiệm của nhân dân... Để hoàn thành nhiệm vụ vô cùng khó khăn đó, Đảng và Nhà nước phải thi hành đồng bộ nhiều giải pháp nhưng quan trọng nhất là phải đẩy lùi tiêu cực trong công tác cán bộ./.
Qua một số quan điểm trên, vận dụng thực hiện nhiệm vụ chính trị của Chi bộ, tham mưu Lãnh đạo Sở về giải quyết chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức theo Nghị định 178/2024/NĐ-CP, theo các đồng chí mình nên lưu ý một số quan điểm nào trong công tác tham mưu triển khai thực hiện quy định trên.
Đảng viên báo cáo Nguyễn Quốc Ân
Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Nhân dịp kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đoàn TNCS HCM 26/3/1931 – 26/3/2024 tôi xin kể câu chuyện: Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin lớn lao vào thế hệ trẻ Việt Nam - những người chủ tương lai của đất nước. Người khẳng định vai trò to lớn của tuổi trẻ trong sự phát triển và trường tồn của dân tộc: "Nước nhà thịnh hay suy yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên". Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Hồ Chủ tịch thường xuyên động viên tuổi trẻ phải ra sức rèn luyện tinh thần, tu dưỡng đạo đức, không ngừng học tập vươn lên để xứng đáng là người chủ tương lai của nước nhà, đồng thời nhắc nhở Đảng và Chính phủ phải đặc biệt quan tâm tới việc đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ.
Trong Di chúc, Người căn dặn: "Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Công tác đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ chính là nhằm mục tiêu xây dựng con người mới XHCN, vì vậy phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài đáp ứng được những yêu cầu cần thiết của thời đại.
Theo Người, cách mạng càng phát triển càng đòi hỏi đông đảo đội ngũ cán bộ các thế hệ, dân trí phải được nâng cao, giáo dục phải phát triển để làm nhiệm vụ chăm lo bồi dưỡng các thế hệ cách mạng, trong đó đặc biệt quan trọng là thế hệ trẻ. Muốn thế hệ trẻ của chúng ta trở thành những người kế thừa xây dựng CNXH vừa "hồng" vừa "chuyên", thì công tác giáo dục phải tiến hành một cách toàn diện như lời Người đã dạy: "Trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ XHCN, văn hóa, kinh tế, lao động và sản xuất”, Hồ Chủ tịch cho rằng, giáo dục bồi dưỡng cho thế hệ trẻ phải chú ý đến cả hai yếu tố đạo đức và tài năng, trong đó lấy đạo đức làm gốc. Đức ở đây chính là đạo đức cách mạng, bao gồm những phẩm chất: Trung với nước hiếu với dân, tức là tuyệt đối trung thành với Đảng với nhân dân, quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng, hết lòng phục vụ nhân dân.
Yêu thương con người: thể hiện trong quan hệ hàng ngày với bạn bè đồng chí, là thái độ tôn trọng mọi người, có lòng vị tha trước những thiếu sót, khuyết điểm của người khác.. Giáo dục toàn diện nhưng phải phù hợp với trình độ, lứa tuổi phải biết kết hợp giữa lý luận và thực hành, lao động trí óc phải kết hợp với lao động chân tay vì: "Lao động trí óc mà không lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà không biết thực hành thì cũng là trí thức có một nửa".
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chăm lo đến việc giáo dục đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ, coi đó là vấn đề then chốt trong chiến lược con người. Điều đó thể hiện ở sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến những nhu cầu, nguyện vọng và xu hướng của tuổi trẻ. Từ đó đề ra những chủ trương chính sách, kế hoạch giáo dục - đào tạo cụ thể, xác thực theo tiêu chí xây dựng con người trong hến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là có kỹ năng, kỹ thuật, kỹ xảo và con người trong thời đại kinh tế tri thức là năng lực tri thức và khả năng sáng tạo.
Bên cạnh những tiến bộ mà thế hệ trẻ đã đạt được thì mặt trái của cơ chế thị trường trong thời kỳ mở cửa, do những thiếu sót trong công tác tổ chức, quản lý xã hội cũng như trong công tác giáo dục - đào tạo, sự thoái hóa biến chất của một số cán bộ Đảng viên đã tác động tiêu cực tới thanh, thiếu niên hôm nay. Nhiều thanh niên mất phương hướng chính trị, mất niềm tin vào lý tưởng CSCN, một số sống bàng quan vô trách nhiệm với bản thân gia đình và xã hội, lười lao động, trốn tránh nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc, đua đòi lối sống hưởng lạc thực dụng, xa rời những đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, coi thường kỷ cương pháp luật. Điều này đã và đang trở thành mối lo ngại của toàn xã hội. Nghiêm túc nhìn nhận, chúng ta thấy công tác giáo dục, bồi dưỡng thanh thiếu niên trong thời gian qua tuy đã có cố gắng song còn nhiều bất cập, chưa theo kịp những đòi hỏi của tình hình. Để khắc phục những tồn tại trên, các ngành, các cấp Đảng và chính quyến phải quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục. Các đoàn thể, các tổ chức xã hội phải tăng cường phối hợp chặt chẽ trong công tác đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, đồng thời nâng cao trách nhiệm giúp đỡ những thanh thiếu niên lầm đường lạc lối, hướng những đối tượng này vào những hoạt động hữu ích. Đặc biệt vai trò gia đình là hết sức quan trọng, ông bà, cha mẹ, anh chị phải nêu những tấm gương tốt về đạo đức, lối sống cho con em mình, bầu không khí êm ấm, hòa thuận trong gia đình là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho các em. Giáo dục gia đình có tác động mạnh mẽ tới sự hình thành nhân cách con người. Nhân cách tốt sẽ là nền tảng vững chắc để thế hệ trẻ vững vàng trên con đường sự nghiệp của mình.
Một khi có đầy đủ cả đức lẫn tài tuổi trẻ hoàn toàn có thể gánh vác sứ mệnh lịch sử là người chủ tương lai của nước nhà. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một nhiệm vụ khó khăn, lâu dài, bền bỉ, nhưng dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta nhất định thực hiện thành công để các thế hệ trẻ cùng: "Giúp sức vào xây dựng một nước nhà tốt đẹp - một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".
Phòng Công chức, viên chức là cơ quan tham mưu về nguồn nhân lực của cả Thành phố, do đó, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức trẻ nói riêng là không chỉ là nhiệm vụ mà còn là trách nhiệm cao cả. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Thành phố có ngày càng hoàn thiện, ngày càng được nâng cao hay không một phần lớn là do sự tham mưu của Phòng Công chức, viên chức đối với nền công vụ này. Do đó, chúng ta cần thấy được trách nhiệm và sứ mệnh của từng đảng viên, công chức Phòng Công chức, viên chức qua đó đóng góp cho sự phát triển của Thành phố.
Thái Hoàng Huy, sinh hoạt Chỉ thị 05 tại Chi bộ tháng 4 năm 2024
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho dân tộc ta; là hệ thống ứng xử xuyên suốt cuộc đời sự nghiệp cách mạng, thể hiện tầm vóc trí tuệ lớn lao, tình cảm sâu sắc của Người đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh có nguồn cội từ lịch sử, từ tư tưởng và thực tiễn của dân tộc, mang dấu ấn thời đại và phẩm chất cá nhân không ngừng kiên trì tự học, tự rèn luyện mới có được. Đó là sự hài hoà giữa văn hoá ứng xử phương Đông, phương Tây, trong đó hạt nhân chủ yếu là mục đích vì ấm no hạnh phúc cho nhân dân, vì sự trường tồn và phát triển của dân tộc và vì nhân loại tiến bộ.
Nổi bật trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh, trước hết là tính nhất quán về mục tiêu, nguyên tắc ứng xử. Tính nhất quán về mục tiêu, nguyên tắc trong phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ trong nhận thức tư tưởng cũng như trong toàn bộ hoạt động thực tiễn cách mạng phong phú. Đối với Hồ Chí Minh, dù ở bất cứ ở đâu, trên bất kỳ cương vị nào, mục tiêu cuối cùng mà Người phấn đấu, hy sinh suốt cuộc đời là độc lập dân tộc, tự do, ấm no và hạnh phúc của Nhân dân. Năm 1946, trên cương vị Chủ tịch nước, trả lời phỏng vấn các nhà báo nước ngoài, Người đã khẳng định: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [1] và “cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập” là mục tiêu tranh đấu của Hồ Chí Minh và của cả dân tộc Việt Nam quyết tâm phấn đấu. Mục tiêu nhất quán đó đã chi phối nguyên tắc ứng xử của Hồ Chí Minh trong mọi hoàn cảnh, điều kiện.
Trong thực tiễn hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn thực hành theo nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó “ứng vạn biến” nhưng không xa rời, vứt bỏ cái bất biến. Đó chính là tinh thần biện chứng trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh. Người nhấn mạnh: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt” [2]. Để thực hiện mục đích ấy, khi thời cơ giành chính quyền đến, Người xác định quyết tâm: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Trước âm mưu chia cắt đất nước của kẻ thù, Hồ Chí Minh kiên quyết khẳng định: Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một và “sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó vẫn không bao giờ thay đổi”. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh, ném bom miền Bắc, Người đã thể hiện ý chí, quyết tâm của cả dân tộc ta: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do” [3]. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, khi cần thiết chủ động đưa ra những điều kiện thoả hiệp, nhưng thoả hiệp phải có nguyên tắc, tuyệt nhiên không bao giờ từ bỏ cái “nguyên tắc bất biến” kể cả khi thương lượng với kẻ thù.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã vận dụng nguyên tắc này như một phương châm xử thế, để vượt qua mọi khó khăn, thách thức chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất. Người đã từng nhiều lần phải kìm nén uất ức trước thái độ ngang ngược, hống hách của kẻ thù, kiên trì, kiên quyết giữ vững lập trường cách mạng, nhưng có lúc lại rất mềm mỏng, linh hoạt, lùi một bước, cũng là nhằm để thực hiện cho được mục tiêu nhất quán cao cả mà trọn đời Người phấn đấu, là độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân, trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, tính nhất quán về mục tiêu, nguyên tắc trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là sự chân thành bình dị, tự nhiên của một vị lãnh tụ, đồng thời cũng là một công bộc thực sự của Nhân dân, vừa có uy lực lại vừa có sức cuốn hút kỳ lạ. Người vừa là nhà chính trị sáng suốt, vừa là nhà quân sự thiên tài, khẩn trương như một chiến sĩ, thanh thản như một triết gia, mềm dẻo mà cương nghị, cao cả mà thiết thực, giản dị nhưng rất mực thanh tao; quan tâm, coi trọng cái lớn, nhưng không quên cái nhỏ.
Mặt khác, nói đến phong cách ứng xử Hồ Chí Minh, không thể không nói đến phong cách ứng xử của Người đối với Nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em. Phong cách đó của người thể hiện tự nhiên, bình dị, cởi mở, chân tình, vừa chủ động linh hoạt lại vừa ân cần, tế nhị, làm cho bất cứ ai được gặp Người đều thấy không khí chan hòa, ấm cúng, thoải mái, không cảm thấy sự cách biệt giữa lãnh tụ và quần chúng. Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh chứa đựng những giá trị nhân văn, nhân bản của con người, luôn hướng con người vươn tới những điều tốt đẹp của chân, thiện, mỹ. Khi cần nhắc nhở, Người không quên chỉ vẽ tận tình. Khi cần phê bình, Người rất nghiêm khắc, nhưng rất độ lượng, bao dung, không bao giờ bao che, nhằm nâng con người lên chứ không hạ thấp, vùi dập. Đối với Hồ Chí Minh, khi tiếp xúc với nhân dân, bạn bè, đồng chí, Người luôn luôn thể hiện thái độ yêu thương, trân trọng, khoan dung, khiêm nhường và độ lượng với mọi người. Chính vì vậy mà sức cuốn hút, cảm hóa, cảm phục, ngưỡng mộ và thôi thúc mọi người hướng tới cái chân, thiện, mỹ trong cuộc sống cũng như trong công việc. Phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở tình thương yêu, sự quan tâm với các đối tượng trong giao tiếp, mà nó còn được thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ ân cần mực thước của chính bản thân Người.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, “Đối với tất cả mọi người trong các tầng lớp dân chúng, ta phải có một thái độ mềm dẻo khôn khéo, biết nhân nhượng, biết trọng nhân cách người ta” [4]. Đặc biệt, đối với đồng bào theo các tôn giáo, Người đánh giá cao và trân trọng những giá trị đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, chỉ ra những giá trị tương đồng giữa đạo đức tôn giáo và đạo đức Cộng sản qua cách nhìn nhận về những người đã sáng lập ra các tôn giáo. Theo Người, vấn đề quan trọng cần đạt được trong việc tiếp cận, đối xử với đồng bào các tôn giáo là phải lôi kéo được quần chúng có đạo vào các hoạt động thực tiễn, tức là xây dựng xã hội mới chứ không phải sa vào cuộc tranh luận vô bổ có cảnh cực lạc trên Thiên Đường hay không. Đối với những người lầm đường, lạc lối hay đã từng cộng tác với bên kia trận tuyến, Người yêu cầu “Không nên đào bới những chuyện cũ ra làm án mới. Đối với những người không nguy hiểm lắm, thì nên dùng chính sách cảm hoá khoan dung” [5]. Nói về Người, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Ở con người Hồ Chí Minh mỗi người đều thấy hiển hiện của nhân vật cao quý nhất, bình dị nhất và được yêu quý nhất trong gia đình mình... Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng Bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên”.
Với bản lĩnh chính trị vững vàng và trí tuệ uyên bác, phong cách ứng xử Hồ Chí Minh vừa tự nhiên, khiêm tốn, chân thành, bình dị, vừa linh hoạt, biến hóa đã tạo nên sức hấp dẫn, cảm hóa đối với con người, quy tụ được các bậc yêu nước lão thành, những trí thức lớn rời bỏ cuộc sống vinh hoa để phục vụ đất nước. Sau một buổi tiếp xúc, Người đã mời và thuyết phục được cụ Huỳnh Thúc Kháng ra đảm nhiệm việc nước; thuyết phục cụ Bùi Bằng Đoàn, nguyên Thượng thư Bộ Hình làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội, cụ Phan Kế Toại, nguyên Khâm sai Bắc Kỳ, làm Phó Thủ tướng; và 4 trí thức người Việt đã thành danh ở Pháp gồm Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa), Trần Hữu Tước, Võ Quí Huân và Võ Đình Quỳnh, đã cảm phục và cùng Người về nước. Giáo sư Đặng Văn Ngữ, một tài năng mà người Pháp, người Nhật, người Mỹ đều muốn sử dụng, song cảm phục và nghe theo tiếng gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1949 ông đã từ Nhật Bản về nước tham gia kháng chiến.
Nói về phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh, một phóng viên người Pháp nhận định: “Mềm dẻo hay kiên quyết khi cần thiết, nhưng bao giờ cũng tự chủ và vẫn giữ phong thái Việt Nam, Ông biết đương đầu với những biến động chính trị và lịch sử, đem cái sức toả sáng phi thường và vô vàn đức tính cao quý của Ông phục vụ sự nghiệp mà Ông là hiện thân” [6]. Thế giới khâm phục và tôn vinh Hồ Chí Minh không chỉ vì Người là anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá kiệt xuất, nhà tư tưởng lớn của cách mạng Việt Nam, mà còn thừa nhận Người là một nhà lãnh đạo, nhà tổ chức thiên tài với phương pháp cách mạng đặc biệt hiệu quả, phương châm xử thế đặc biệt nhạy cảm. Nhà báo Úc Wilfred Burchett, người từng có nhiều cuộc phỏng vấn Hồ Chí Minh, cho biết: “Cảm giác đầu tiên của tôi là sự thân mật, ấm áp và giản dị. Hồ Chủ tịch có khả năng khiến người ta thấy nhẹ nhõm ngay từ khoảnh khắc đầu tiên và trình bày những vấn đề phức tạp nhất chỉ trong vài từ và cử chỉ rõ ràng. Trong những cuộc gặp gỡ tiếp theo với nhân cách vĩ đại này, sự ấm áp, giản dị, cách thể hiện rõ ràng xuất phát từ trí tuệ mẫn tiệp và sự thấu hiểu trọn vẹn chủ đề khiến tôi có ấn tượng vô cùng sâu sắc”. Ngài Giôn Giô-lan, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Anh (1969) đã viết: “Được gặp gỡ và nói chuyện với đồng chí Hồ Chí Minh là một ấn tượng không thể nào quên được. Đây là một con người vĩ đại nhưng không bao giờ Người tỏ ra mình là một con người vĩ đại. Mặc dầu những trọng trách phải gánh vác, Người vẫn thân ái, nhiệt tình và sôi nổi làm cho bạn cảm thấy thoải mái ngay”…
Phong cách Hồ Chí Minh nói chung, phong cách ứng xử của Người nói riêng là tài sản tinh thần vô giá của Đảng, dân tộc ta, là tấm gương sáng để mỗi người có thể học tập và noi theo. Vì vậy, việc đẩy mạnh học tập và làm theo Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chính là một giải pháp quan trọng, thiết thực góp phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ. Thông qua việc học tập và làm theo phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng và Nhân dân, nghiêm túc tự kiểm điểm, tự giác khắc phục những hạn chế, yếu kém trong ứng xử với các đối tượng trên cương vị, chức trách được giao. Đồng thời, thực hiện nói đi phải đôi với làm, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống giản dị trong sáng, luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được Đảng và Nhân dân giao phó.
Trong giai đoạn cách mạng mới, học tập và làm theo phong cách của Hồ Chí Minh, đòi hỏi các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp và các đoàn thể quần chúng cần tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự cần thiết phải học tập và làm theo phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Đặc biệt, đối với cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành phải luôn đề cao ý thức, trách nhiệm, tích cực, tự giác tu dưỡng, rèn luyện, kiên quyết đấu tranh tự khắc phục những hạn chế, yếu kém trong phong cách ứng xử hàng ngày, thực hiện thành nền nếp thường xuyên, lời nói phải đi đôi với việc làm, nêu gương sáng trước tập thể; phải thực sự là người có phẩm chất chính trị trong sáng, đạo đức lối sống trong sạch, lành mạnh, gắn bó mật thiết với Nhân dân, là lực lượng tiên phong đi đầu trong học tập và làm theo phong cách ứng xử Hồ Chí Minh./