Xã Vân Canh là một miền quê hiếu học ở Thăng Long (nay là xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội). Ở đó, họ Trần có truyền thống văn học đáng trân trọng. Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ 18, khi Trần Bá Lãm đã đậu Tiến sĩ (Khoa Đinh Mùi – 1787), làm quan tại kinh đô, nóng ruột vì việc học của con trai ở quê nhà, ông đã nhiều lần viết thư khuyên nhủ. Thư gửi con của Trần Bá Lãm hàm chứa cả kỳ vọng về những điều mình chưa làm được, và gửi gắm cả nỗi lo toan với những chi tiết thuộc về đời sống thường ngày đối với đứa con luôn bé nhỏ trong tấm lòng cha mẹ.
Họ Trần ở Vân Canh may mắn là hiện còn không ít các sách vở Hán Nôm về cha ông, truyền thống dòng họ, truyền thống quê mình. Bức thư này nằm tại một trong số sách vờ ấy. Cuốn sách mang tên Hòe Hiên tiên sinh tập, chỉ có một ký hiệu A.526, tại Thư viện của Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Sách khổ 22 x 32 cm, 118 trang, giấy gió dày, bìa bằng giấy Tây, có thể đoán định là sách được đóng bởi chủ trương của Viện Viễn đông Bắc cổ Pháp hồi đầu thế kỷ 20. Ở đây, tên sách không đại diện cho nội dung toàn bộ sách. Hoè Hiên là tên hiệu của Trần Hiền, Tiến sĩ thời Lê, ông nội của Trần Bá Lãm, trong sách, số lượng văn của Hòe Hiên tiên sinh không nhiều. Phần chủ yếu của sách là văn của Tiến sĩ Trần Bá Lãm. Bức thư là một trong số văn ấy:
Phiên âm:
Ngã vi bần sở dịch, tại kinh chuyên dĩ cầu tài, vi sự bất an vu kỳ giáo, cố bất huề nhữ dữ giai; dục nhữ cư gia thủ tĩnh, tứ lực công thư, do hiền vu khách Trường An. Nhữ kim tại gia tảo miên án khởi, bất tích phân âm (1), ngột tọa nhàn cư nhai quá nhật tử. Cựu thư nhược quá khách, lương điền xả bất vân, thậm phi ngô sở dĩ khóa nhữ chi ý. Tích Đào chinh nam đại trấn vô sự, triêu mộ vận bích, cái viết: “Quá nhữ ưu du, khủng bất kham sự”. Tố quan nhân thượng thả như thử: Ngô nho vi học, đường hà như tai? Tam nguyên sự nghiệp như ngô hữu vị năng, khoa táo chàng lâu; khởi phi nhữ thừa gia chi trách? Trùng khánh môn lư, cập kim vô sở quải, triêu kinh mộ sử, khởi phi nhữ tiến học chi thời? Như thử như thử! Miễn chiên miễn chiên! Nam nhi đáng tự cường, hà giả thu thanh chi hạ vũ; hoàng thiên ưng bất phụ, hội khan đắc ý ư xuân phong.
Kim hữu trọng bội ngũ lạng, hứa nhữ giải khát. Thực bão hậu thuỵ lai thời, nhập bạc khương nhất phiến tiễn ẩm, bất khả tham bôi.
Dịch nghĩa:
Cha bấn vì công việc, ở kinh đô chuyên để kiếm tiền, vì thế không yên tâm dạy dỗ con, cho nên không dắt con theo cùng. Ý là muốn con ở quê nhà được tĩnh tâm, dốc sức sách vở, tài hiền hơn cả văn nhân mặc khách Tràng An.
Nay con ở quê nhà ngủ sớm dạy muộn, chẳng tiếc thời gian ngắn ngủi, ngồi rỗi chơi nhàn ngày qua tháng nọ. Sách cũ xem lướt như trông người lạ, ruộng màu bỏ mặc chẳng cày cấy. Thực chẳng phải là ý nguyện cha muốn truyền cho con gì cả…
Xưa tướng quân Đào Khản (2) cầm quân ở phương nam, tại nơi trấn thủ nhàn rỗi, sớm chiều tự tay khiêng gạch ngói ra vào, bảo rằng:
- Thời gian nhàn quá, sợ không chịu nổi.
Người làm quan còn như vậy. Đến bọn theo Nho học như nhà ta thì đáng phải làm sau đây? Sự nghiệp tam nguyên, đến ta còn chưa thể vượt tổ hơn tông, há chẳng phải món nợ gia tộc con cần gánh lấy hay sao? Ông bà cha mẹ đến nay chưa có chỗ nhờ, nấu sử sôi kinh, há chẳng phải khi con cần gắng học hay sao? Vậy đó! Gắng lên! Gắng lên!
Nam nhi đáng tự cường, cần chi bội thu nhờ mưa hạ; trời cao đà không phụ, rồi xem đắc ý trong gió xuân.
Nay có sữa khô (3) 5 lạng, gửi cho con giải khát. Sau khi ăn no, lúc đi ngủ, hãy cho một lát gừng mỏng vào nấu uống, chớ được tham đầy.
Trên đây chỉ là một trong không chỉ một bức thư mà Trần Bá Lãm gửi cho con trai, bộc bạch kỳ vọng của người làm cha. Phương thuốc ông gửi cho con (trong văn bản là TRỌNG BỘI, tạm dịch là sửa khô) không chỉ là thuốc trị bệnh trong thể xác, mà chủ ý là trị bệnh lười (theo bức thư Gửi con trai là Chấn Tử, Giải Nguyên, quan Doãn huyện Nam Chân). Trấn Bá Kiên hiểu lòng cha, trong thư đáp lại, có nhắc những câu trong kinh điển như: “thuốc đắng miệng, giã được bệnh”, và hứa sẽ không sợ đắng, nghiêm cẩn phục thuốc để cơ thể mạnh khoẻ, tinh lực hăng hái, bước tiến vững chãi, xứng là bậc thành nhân trong thiên hạ.
Quả là, thuốc đắng cha cho đã hay, con dám nhận thuốc đắng càng hay. Sau đó, Trần Bá Kiên chỉ đỗ Cử nhân (hàng đầu) mà làm quan tới Cai bạ (tương đương Bố chánh sứ hàng tỉnh). Hơn thế, ông còn được bổ Chủ khảo thi Hội năm 1822 đời vua Minh Mệnh. Khoa này, nhiều vị tân Tiến sĩ sau này trở thành bậc đại nho, tiêu biểu là Hà Tôn Quyền. Chính Trần Bá Kiên đã làm thơ chúc mừng Hà Tôn Quyền và một số vị đại tân khoa, trong đó, niềm thành tâm không kém gì tình cảm của người cha đối với mình ngày trước.
Thêm nữa, chính sự trao đổi thư nói trên giữa hai cha con Trần Bá Lãm, Trần Bá Kiên là lời dẫn cho một cuộc họa thơ thú vị của hai vị Nho sĩ nhiều tâm sự này.
Chú thích:
(1) (2) Đào Khản (259-334) người đời Tấn, quê Tâm Dương, tự là Sĩ Hành. Rất có tài, sau được phong Quận công. Khi ở Quảng Châu, mỗi sáng, Đào Khản vác trăm viên ngói ra ngoài phòng, tối đến lại vác vào trong phòng, ý là dốc chí làm việc. Ông từng nói: “Bậc thánh Đại Vũ còn tiếc mọt thốn quang âm, với người phàm chúng ta, đáng phải tiếc từng phân quang âm một”.
Phân âm: chỉ thời gian rất ngắn ngủi.
(3) Nguyên văn là Trọng Bội (…..), chưa hiểu nghĩa, tạm dịch là sữa khô (Trọng có một nghĩa là sữa – Theo Từ nguyên, Khang Hy tự điển).