Thành hoàng làng Hậu Ái tên thật là Đỗ Kính Tu sinh năm 1152 (Nhâm Thân) hoặc Mậu Thìn (1148) trong một gia đình nho học tại làng Nhân Lý, Vân Canh, huyện Từ Liêm (nay là làng Hậu Ái). Ông là người thông minh, ham học và trí tuệ hơn người, năm 13 tuổi đã đậu Tam trường kỳ thi Hương, 18 tuổi khi triều đình mở khoa thi võ, ông trúng tuyển bậc võ quan. Ông được thăng làm Lịch điển khu tào cuối đời vua Lý Anh Tông (1138-1175). Khi vua Lý Anh Tông mất, vua Lý Cao Tông (sinh năm 1173) mới 3 tuổi, Đỗ Kính Tu cùng Tô Hiến Thành phụ chính, vỗ về dân xa, dẹp yên loạn bên trong và giặc ngoài. Sau đó, ông được phong nhiều chức như: Đế Sư, Thái Bảo Phụ quốc, Thái Phó, Thái Úy và được ban quốc tính là Lý Kính Tu. Theo sách Đại Việt sử lược viết vào thế kỷ 13 thì năm 1204 ông đang làm Thái bảo Phụ quốc, sau ông được thăng làm Thái phó đến năm 1210 vua Lý Huệ Tông thăng làm Thái úy.
Năm 1182, sau khi Thái úy Tô Hiến Thành mất năm 1179, Đỗ Kính Tu giữ chức Đế sư - thầy dạy học cho vua nhỏ Lý Cao Tông (1175-1210), từ đó chấm dứt hoàn toàn âm mưu phế lập của Chiêu Linh thái hậu. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Năm Nhâm Dần, lấy Kính Tu làm đế sư, trong thì hầu giảng sách, ngoài thì chăm việc dân, từ đó thái hậu Chiêu Linh không dám manh tâm mưu khác”. Năm 1175, bà Chiêu Linh từng muốn bỏ Lý Long Trát mà lập Long Xưởng (con trai bà) làm vua nhưng Tô Hiến Thành không nghe. Bốn năm sau, Tô Hiến Thành qua đời, bà lại muốn thay đổi vua nhưng Đỗ Kính Tu phản đối, bà cũng đành chịu. Theo nhà bác học Phan Huy Chú, thời Lý chỉ có bốn người được xếp vào hàng “những người phò tá có công lao tài đức”, trong đó có Đỗ Kính Tu.
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Mùa xuân năm 1204, Đỗ Kính Tu cầm quân ra trận đi đánh bọn nổi loạn ở Đại Hoàng nhưng không được”. Cầm đầu cuộc nổi loạn là Phi Long vốn là một quan chức cùa triều đình, từng vạch tội thái úy Đàm Dĩ Mông đục khoét nhân dân nên bị viên quan này âm mưu sát hại. Phi Long trốn về quê ở vùng Đại Hoàng rồi cùng nhân dân khởi nghĩa. Khi Đỗ Kính Tu đem quân tới, Phi Long ra trước ngựa phân trần. Cảm thông với hoàn cảnh của Phi Long, Kính Tu giao chiến chiếu lệ rồi thu quân. Việc này đã mang lại hậu họa cho ông.
Năm 1210, vua Cao Tông đau bèn triệu Kính Tu vào để ký thác việc lập Huệ Tông lên ngôi. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Mùa đông, tháng 10, vua không khỏe, gọi Đỗ Kính Tu và nhận mệnh ký thác. Ngày 28 Nhâm Ngọ, vua băng ở cung Thánh Thọ”. Nếu Tô Hiến Thành nhận di chiếu Lý Anh Tông lập Lý Long Trát làm vua, tức Cao Tông thì Đỗ Kính Tu nhận di chiếu của Vua Cao Tông lập Lý Hạo Sảm làm vua, tức Lý Huệ Tông.
Ở làng Hậu Ái, người dân còn nhớ mãi công lao của ông đã cứu làng khỏi nạn úng ngập. Làng này nằm trong vùng đất trũng, đến mùa mưa cả làng chìm trong nước. Ai cũng muốn có con mương tiêu nước từ đồng Trầm (Hậu Ái) qua Hòe Thị, Thị Cấm rồi đổ vào sông Nhuệ, nhưng không làm được vì phải đi qua nhiều làng. Đỗ Kính Tu đã đứng ra thương lượng với các địa phương, lấy hơn chục mẫu ruộng do vua ban để đền bù cho các chủ đất. Nhờ đó, con mương Trầm Động ra đời, Hậu Ái không còn bị khổ vì nạn úng ngập nữa.
Bọn quan ghen ghét đã vu cáo ông cho đào mương để tiện hành quân đánh úp kinh thành. Không sao bộc bạch được nỗi lòng của mình, Đỗ Kính Tu cùng người tiểu đồng cưỡi ngựa ra bến sông Hồng ở làng Kẻ (nay là làng Thượng Cát, huyện Từ Liêm) trầm mình xuống dòng sông. Còn lưu truyền huyền thoại, trước lúc ông lên ngựa để phi ra sông Hồng ông đã gọi đủ vợ và thê thiếp, khuyên họ khi ông chết nên tái giá vì họ còn trẻ, nhưng cả bảy người không nghe và họ đã tuẫn tiết trước ngựa của ông, ở thôn Hậu Ái bây giờ còn miếu thờ bảy bà nàng, không xa mộ của ông là mấy. Hôm đó là ngày 21 tháng 5 âm lịch năm 1216 (Bính Tý). Xong, căn cứ vào bối cảnh lịch sử lúc đó thì nhiều khả năng ông mất vào năm Tân Mùi - 1211, sau khi Lý Huệ Tông vừa mới lên ngôi đã “đem việc nước giao cho Thái úy Đàm Dĩ Mông - một kẻ không học thức, không có mưu thuật nên chính sự nước nhà ngày càng đổ nát.”.
Cũng là sự lưu truyền, trước lúc nhay xuống sông Hồng, ông đã có lời khấn, nếu ông đúng tội, cả người và ngựa sẽ rời nhau và bị nước cuốn trôi mất, còn nếu như ông vô tội thì cả người và ngựa sẽ không rời nhau và nổi lên. Quả nhiên, chỉ sau ba ngày cả người và ngựa nổi lên và vẫn dính chặt vào nhau.
Nỗi oan của ông sau này được giải tỏ, triều đình phong ông làm Phúc thần đựợc thờ làm thành hoàng ở thôn Hậu Ái. Về bi kịch này, Phan Huy Chú đã viết: “Vỗ về dân xã, dẹp yên giặc giã, dự hàng công lớn mà bỏ mình vì bọn quyền thần tàn bạo”.
Khi ông mất, vua chợt tỉnh ngộ, liền cho rước ông về quê để mai táng, và lấy ngày 21 tháng 5 âm lịch hàng năm là ngày tế lễ tưởng niệm. Thương tiếc và tưởng nhớ đến công lao của ông, dân làng tôn ông làm Thành hoàng làng và dựng đền trên đất nhà ông để thờ tự. Đến năm 1914, làng tu sửa đền thành đình.
Ghi nhận công lao to lớn của ngài đối với nhà Lý và lịch sử, các đời vua nhà Nguyễn đã ban sắc phong cho ngài là: Tế Thế Hựu Dân Hiền Lương Dực Bảo Khai Quốc Đại Vương.
Sắc phong ngày 24/1 năm Tự Đức thứ 33 (1880)
Sắc phong ngày 1/7 năm Đồng Khánh thứ 2 (1886)
Sắc phong ngày 11/8 năm Duy Tân thứ 3 (1909)
Sắc phong năm Khải Định thứ 9 (1924)
Bản sắc phong mùa xuân năm 1924 viết: “Kính nhớ! Thành Hoàng bản cảnh là: Tướng công Đỗ Kính Tu làm Nhập nội kiểm hiệu Thái úy phụ quốc. Sắc tặng ngài làm vị thần Đại Vương, có lòng nhân dâu sắc ơn huệ rộng lớn giúp đời cứu dân mở nước. Hiền lương giúp dập sự nghiệp trung hưng, phẩm cách trong sáng tốt đẹp là bậc anh hùng tuấn kiệt”.
Tại Đền Đô (nơi thờ các vị vua nhà Lý) trong văn chỉ ghi danh các công thần triều Lý có ghi tên Ngài là "Lý Kính Tu giữ chức Đế sư, Thái bảo phụ quốc, Thái phó, Thái úy thời Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông".
Đình Hậu Ái, Mả Am - phần mộ tổ của ông và Mả nàng Mả nàng - nơi các tỳ thiếp chết theo ông đều được Bộ VHTT xếp hạng di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia năm 1989.
Ngôi đình Hậu Ái
Phần mộ của Đỗ Kính Tu
Ngôi đình Hậu Ái
Ngôi đình Hậu Ái xây dựng trên khu đất cao, rộng giữa làng, phía trước có hồ rộng, xung quanh có nhiều cây cổ thụ. Cổng đình có hai cột hoa biểu cao, phía trên mang hình lồng đèn, đắp tứ linh, hổ phù, tận cùng là bốn chim phượng hoàng chụm đuôi lại. Từ trụ biểu, xây tường ra hai bên, giữa tường trổ cửa phụ vòm cuốn, mái chồng diêm. Qua hiên, vào sân hai bên là hai dãy tả vũ, hữu vu đều co sáu gian, tường hồi bít đốc, các vì kèo làm kiểu quá giang trên cột gạch. Phía cuối sân là tòa đại đình dàn ngang năm gian, hai mái. Trên bờ nóc đắp đôi rồng chầu mặt trời. Bộ vì kèo kiểu năm hàng cột để mái trước đình mở rộng, các cột gắn bó với nhau theo kết cấu “thượng giường hạ kẻ”. Các thành phần kiến trúc được chạm tứ linh (long, ly, quy, phượng), hổ phù, hoa lá với đường nét mềm mại theo phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Từ gian giữa đại đình chạy học về phía sau là tòa hậu cung tạo thành hình chữ “đinh”. Bộ khung hậu cung chắc chắn, các vì kèo theo kiểu ‘thượng giường hạ bẩy”, nhiều chỗ được chạm rồng, mây, hoa lá như ở đại đình. Hậu cung được ngăn đôi bằng hệ thống cửa bức bàn sơn son, vẽ hình rồng, phượng, rùa, lân. Phía trong cung cấm có khám thờ với tượng thành hoàng Đỗ Kính Tu. Nhang án trên có long ngai, bài vị. Phía ngoài bầy bộ kiệu giá ngự, các đồ tự khí như bát bửu, cờ năm màu…
Trên thượng lương ghi rõ đình làm lại năm Giáp Dần, niên hiệu Duy Tân thứ 8 (1924). Kiến trúc đình Hậu Ái thuộc đầu thế kỷ XX và được bổ sung một số hiện vật như cuốn thần phả do tiến sỹ Nguyến Bá Đôn, người cùng xã Vân Canh, soạn năm Tự Đức thứ 12 (1859) cùng với sáu bức hoành phi và tám câu đối.