- Cái Ống Thổi Lửa
- Nỗi Niềm Hoài Hương
- Hương Cau Quê Ngoại
- Bánh Lá
- Mùa Dế Và Những Ký Ức Tuổi Thơ
- Tấm Ảnh Ngày Xưa
- Trường Cũ - Tình Xưa
- Ký Ức Mùa Tựu Trường
- Chiếc Lá Thuộc Bài
- Ký Ức Một Thời Học Sinh
- Miếng Giữa Làng
Cái Ống Thổi Lửa
Những ngày thơ ấu sống nhờ bên ngoại, tôi vẫn thấy bà ngoại tôi mỗi lần nấu cơm bằng “cà ràng” phải quạt lửa rất cực, gặp củi ướt chưa kịp khô thì còn vất vả hơn nữa…Ông ngoại tôi bèn làm cho bà một cái ống thổi lửa bằng một đoạn cây trúc rỗng, từ ngày có cái ống thổi bà tôi không còn phải cật lực quạt “phành phạch” vào cái bếp lò để cho lửa cháy lên, mà bà chỉ cần kê đầu ống thổi vào gần mớ củi đóm đang cháy lom đom, thổi phù phù vài hơi là lửa bén lên ngay!
Nông thôn không có nấu, nướng bằng than đước – than đước là thứ hàng “xa xí phẩm” chỉ dùng cho…sản phụ “nằm ổ”! – mà toàn là nấu bằng củi trâm bầu, củi các loại cây tạp gặp ở đâu đó là cứ chặt về, phơi khô để dành dùng dần. Đống củi nhà ngoại tôi chất theo hình khối, củi nhiều ơi là nhiều! Hoặc khi sử dụng trái dừa xong bất kể là dừa tươi hay dừa khô, ngoại tôi đều đem phơi khô hết để dành cho công việc nấu ăn. Nấu ăn bằng vỏ dừa hoặc gáo dừa khô cũng ngon lắm, lửa cháy rất đượm, sau khi nấu xong còn gắp phần than đang cháy đỏ mà ủi quần áo trong cái bàn ủi đồng thau (có hình con gà ở trước mũi bàn ủi), hoặc dùng than miễng gáo nướng vài cái bánh phồng mì, phồng sữa hay bánh tráng dừa – tráng từ dịp Tết nên lúc nào cũng có trong nhà - để ăn tráng miệng quả là “nhất cử tam tứ tiện”. Ngày tôi về thị xã, cứ nằng nặc xin bà ngoại cái ống thổi lửa cho mẹ tôi nấu cơm, vì tôi thấy mẹ tôi cũng cực trần thân với ba cái than mua ngoài chợ, gặp than đước còn đỡ chứ gặp than mắm hầm chưa tới, than cầy là bó tay! Bà cũng chìu tôi, gói cẩn thận cái ống thổi lửa cho vào túi xách để tôi mang về thị xã cho mẹ tôi, còn ông ngoại sẽ làm cho bà cái ống thổi lửa khác tre, trúc quê tôi thiếu gì! Tôi hý hững mang cái ống thổi lửa về khoe với mẹ tôi, bà cốc vào đầu tôi: “ Nhà mình nấu ăn bằng “rề-sô” rồi, chỉ dùng dầu hôi chứ đâu có nấu than nữa, con mang về làm chi?”. Và bà đem cái ống thổi lửa cất vào trong góc bếp, không đụng tới làm tôi buồn mất mấy ngày.Về sau, cuộc sống kinh tế gia đình ngày càng khó khăn, mẹ tôi chuyển qua nấu bằng củi, tôi mới mười mấy tuổi đầu đã phải đạp xe từ Mỹ Tho về tận Bình Ninh (Chợ Gạo), chặt từng ôm củi, buộc vào “ba ga” xe mà chở về cho mẹ tôi nấu ăn! Lúc này, mẹ tôi mới nhớ tới cái ống thổi lửa của bà ngoại mang ra dùng, cái ống phát huy tác dụng ngay lập tức, chỉ cần kê miệng thổi nhè nhẹ vào đầu ống bên này, là hơi gió tuôn ra ào ào từ đầu ống bên kia khỏi cần cầm quạt mà quạt như “Tề Thiên quạt tắt Hoả Diệm Sơn nữa”. Năm tháng dần trôi, cái ống thổi của ngoại tôi cho đã lên nước bóng lưỡng, một đầu ống đã cháy xém vì tôi mỗi lúc thổi lửa nấu cơm giúp mẹ cứ kê sát vào bếp! Mẹ tôi qua đời, cái ống thổi lửa hình như bị mấy đứa em tôi lãng quên và bỏ xó, hay quăng bỏ đi đâu rồi…vì tụi nó xài bếp gas đâu có cần tới ống thổi lửa làm chi! Hình như cuộc sống ngày càng khấm khá, đi lên thì người ta thường hay lãng quên những thứ tầm thường, vụn vặt – mà có một thời đã giúp ích rất nhiều cho họ - Thiên hạ bây giờ xài bếp “gas” ba, bốn miệng mỗi lần nấu chỉ cần bật công tắc đánh lửa nhẹ nhàng, êm ái! Hoặc có người xài bếp từ, bếp điện, bếp dầu, bếp than tổ ong chứ ít có ai xài lò nấu than, nấu củi! Thảng hoặc có xài thì cũng chỉ biết cầm quạt mà phành phạch vào miệng lò chứ đâu có ai nghĩ tới hay sử dụng cái ống thổi lửa tầm thường ngày xưa! Vườn cây càng ngày càng bị thu hẹp, chặt trụi để tiến theo cái đà “công nghiệp hoá”, tìm được cây trúc, cây tre để cắt một đoạn làm ống thổi lửa e rằng hơi…bị khó! Dân nông thôn bây giờ đã biết tận dụng nguồn “Bi-ô-gas” thì cái “cà ràng” nấu củi ngày xưa cũng đi về với cát bụi, còn cái ống thổi lửa chắc cũng chịu chung số phận hẩm hiu rồi, còn đâu! Nhưng, cứ theo cái đà tăng giá ào ào của các loại chất đốt như hiện nay, chắc có một ngày người ta phải quay về với lò than, bếp củi thôi! Lúc đó, không biết có còn ai nhớ tới công dụng của cái ống thổi lửa hay không nhỉ?
Hoàng Đức
Nỗi Niềm Hoài Hương
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ?
Đi xa ai cũng nhớ nhiều…” (Thơ Đỗ Trung Quân)
Mỗi người chúng ta ai cũng có một quê hương để thương, để nhớ, để mỗi khi sương đã nhuộm trắng mái đầu, ta lại thả hồn về nơi mình sinh ra và lớn lên… Cho dù nơi đó là nơi “đồng khô, cỏ cháy” hay là nơi “đồng ruộng phì nhiêu”.
Dù quê hương của ta giàu hay nghèo, đẹp tươi hay cằn cỗi…thì đó cũng là nơi ta cất tiếng khóc chào đời trong vòng tay của mẹ và của cả quê hương đã cưu mang, đùm bọc ta. Quê hương là một bà mẹ chịu thương, chịu khó.
Tôi sinh ra và lớn lên trên quê hương Bình Ninh – xã anh hùng trong thời kỳ kháng chiến - Mà mỗi con đường, mỗi bờ tre, gốc lúa đều khắc đậm dấu ấn trong miền ký ức của tôi không thể mờ phai. Còn nhớ, những năm sáu mươi của thế kỷ XX, đường làng quê tôi dài và trải bằng đá củ đậu, hai bên đường trồng hai hàng me xanh mượt, trái tốt bời bời…Nhưng, trong kháng chiến làng tôi thực hiện “tiêu thổ kháng chiến” nên đường bị đào thành những con hố to, rộng theo hình chữ nhật, bố trí theo kiểu chữ “chi”. Đào kiểu này thì xe, pháo các loại của giặc cứ gọi là “bó tay” vì không có cách nào chạy trên một con đường toàn hố là hố! Ngày đó, mỗi khi có dịp đi đâu các cậu tôi thường hay lấy xe đạp, chạy cặp sát mé lộ mới đi được. Người lạ vào làng không có cách nào chạy xe, chỉ có nước đi bộ hoặc đi …trở về. Còn nhớ, khi tôi còn nhỏ mẹ tôi hay kể cho tôi nghe về chuyện những con “cá sấu hoa cà” ở quê tôi. Mẹ nói: “Hồi trước, cặp bờ sông Cái mé Bình Ninh chỗ ấp Hoà Phú bây giờ, có một bến đò ngang để qua cù lao Tân Thới (tức cù lao Lợi Quan). Thuở ấy, người muốn qua sông, con sông rộng như thế, vậy mà chỉ cần đứng bên này sông cất tiếng “hú” là bên kia sông người chèo đò nghe liền, “hú” đáp trả lại và chèo đò qua rước khách”. Trong tâm tưởng của tôi như vẫn còn vương vấn bài thơ “Chợ chiều” mà tôi đã được học…
“Những bó rau xanh cũng úa vàng…
Nắng chiều buông xuống, chợ chiều tan
Gái quê kẽo kẹt vai đòn gánh
Ghé bến gọi đò xin quá giang…”
…sao mà nó phù hợp với cái bờ sông Cái quê tôi đến vậy?!
Ngày đó - mẹ tôi nói – “Khi dẫn chị em tôi về Tân Thới thăm bà con, còn nghe tiếng sấu “khịt” mé bờ sông, có khi chúng kêu như tiếng nghé kêu…Mãi sau này, những năm 63 – 64 do tàu dầu, tàu binh của Hải quân Mỹ - nguỵ chạy nhiều nên chúng trốn đi hết, mà không biết đi đâu? Có lẽ chúng nó đã về tuốt dưới Lý Hoàng - Cả Thu hết rồi…” Eo ôi! Nghe mẹ tôi kể mà tôi thoáng rùng mình, vì nhớ lại trong những năm 60 -70, những lần theo cậu Út về Tân Thới, tới bến sông đầy những lục bình hoa tím là tôi lại cởi áo quần nhảy ùm xuống hái, để chiều về cho ngoại tôi ăn với mắm đồng kho. Lúc ấy, nếu còn cá sấu hoa cà thì cuộc đời của tôi coi như “bế mạc” ngay tắp lự,đâu còn ngồi đây mà viết lại chuyện nầy hầu bạn đọc?! Trong tâm trí trẻ thơ của tôi, tôi tưởng tượng ra những con cá sấu bơi lên, bơi xuống trên ngọn sông Cái, từ miệt giáp nước Lý Hoàng về Bình Ninh, lâu lâu nhô đầu lên táp một cái “đùng” mà khiếp hãi! Nhưng, những con sấu hoa cà ở quê tôi từ đó đến giờ tôi chỉ nghe ngoại và mẹ tôi kể lại chứ chưa từng được thấy, chắc chỉ là…chuyện kể vậy thôi!
Hồi nhỏ, tôi mê nhất là theo cậu tôi đi bắn chim sâu, chim “trau-trãu”…những con chim mập núc, mỗi sáng đậu đầy trên các cành cây trong vườn nhà ngoại tôi mà kêu loạn cả lên. Cậu Út của tôi có biệt tài giả tiếng chim, từ chim sâu, trau-trãu đến chim vịt, bìm bịp hay tu hú cậu cũng làm được tuốt! Lúc đó, cậu tôi đi móc đất sét ngoài ruộng về vò thành từng viên tròn như viên bi, đem phơi cho thật khô rồi bỏ vào cái “túi dết” mang lủng lẳng bên hông. Trên cổ cậu là cái ná thun làm bằng cây “gỏ đỏ” lên nước bóng mượt, với hai sợi dây thun bằng ruột xe máy dầu đỏ au, tôi cũng kỳ cạch chui vào bụi “bình linh”, chặt cả buổi trời một cái nạng để làm giàn ná, kỳ cạch lấy miễng chai chuốt cho láng, thun của tôi bắn là thun khoanh (thứ dùng để cột đồ ngày xưa) chứ tôi giương thun ruột xe đâu có nổi! Cậu tôi phân công tôi đi theo có nhiệm vụ là “thu dọn chiến trường” tức là khi cậu bắn rớt con chim nào, tôi phải chạy đi lượm, bỏ vào cái túi bằng vải mà tôi có nhiệm vụ đeo trên cổ chứ không được bắn…Còn nhớ một lần hai cậu cháu đi bắn chim, sương sớm vừa tan, bầy chim sâu bay tới đậu đầy trên các cành cây trong vườn, chúng mỗ những quả xoài muộn còn sót lại trên cao…Cậu tôi giương giàn ná, nhắm và buông đạn, một chú chim sâu rớt xuống cứ thế cậu tôi bắn lia lịa mà phát nào cũng một con. Tôi “ngứa tay” quá, nên lấy ná thun nạp đạn và bắn lia lịa vào…không khí. Cậu tôi chê “Mày bắn dở ẹt, làm chim bay hết thấy không?” Yên ắng một hồi, cậu tôi cho hai ngón tay vào miệng nút chíu chít giả tiếng chim sâu gọi đàn, thế là bầy chim bu lại, tôi được dịp “xạ tiễn”. Của đáng tội, tôi bắn quá “ẹ” nên đạn cứ trúng “cành cành” vào các cành cây chứ cóc có con chim nào chịu…trúng đạn của tôi cả! Thế là, tôi phải chịu làm kẻ thu dọn chiến trường, mỗi con chim sâu nhặt được tôi đều nhổ lông trên đầu bỏ đi “Làm vậy chim mới không bị mất thịt” - cậu tôi nói thế. Những con chim bắn được, đem về ngoại tôi nhổ lông, thui vàng rồi “quay chảo” với nước dừa Xiêm, ăn hả hê tới chân răng luôn! Rồi những ngày theo cậu Út đi “vó” cá trắng, thứ cá nầy không biết ở đâu mà hễ mỗi khi đào đất ruộng đắp nền nhà là chúng lại có mặt trong các cái hố mới đào đó. Mỗi lần vó như thế được cả tô lớn, cá trắng đem về kho lạt với lá gừng, ăn kèm với chuối chát, khế và rau sống ngon hết biết! Rồi những ngày ra sông cất vó lớn để bắt cá linh, từng đàn cá linh béo ngậy đua nhau bơi về theo con nước tháng Mười đỏ quạch phù sa, cá linh đem về kho với nước mía, rau răm ăn cũng ngon không kém…Những món ăn dân dã, đồng quê ngày xưa vậy chứ bây giờ kiếm không ra, muốn ăn phải vào “nhà hàng đặc sản” và bị “chém đẹp” với giá trên trời! Rồi những ngày dẫn theo con chó Phèn đi đào chuột đồng, những con chuột béo múp míp trong mùa lúa chín, bắt được cũng “trần ai khoai củ”, “lên bờ xuống ruộng” chứ đâu có dễ. Nhưng có cực vậy khi ăn nó mới thấy ngon, chuột đồng đem về ướp sả ớt, nướng hoặc ướp nước dừa, ngũ vị hương đem “rô ti” ăn cha chả là ngon! Hoặc là rủ một số tay “bợm” nữa, đi đào bắt những con rắn hổ đất to, mập dài cả mét bà ngoại tôi không cho bắt rắn, bà hay khuyên: “Để cho nó ăn chuột, bảo vệ mùa màng. Bắt hết rồi lấy ai bắt chuột?”. Mà hình như mồi nhậu bằng rắn hổ cũng không phải là món nhậu “khoái khẩu” của các ông bợm nhậu quê tôi ngày xưa hay sao ấy, mà ít thấy có ai đi bắt rắn. Vì thế, đồng ruộng quê tôi ngày đó rất ít chuột phá hại mùa màng, chứ không như bây giờ dân nhậu bắt “sạch sành sanh” cung cấp cho nhà hàng không chừa một con, nên chuột tràn đồng! Thiên địch của loài chuột bị loài người tận diệt như thế, thì cho dù có xài tới thuốc diệt chuột của…Trời đi nữa cũng không thể nào hết chuột. Thỉnh thoảng, lại đốt phân trâu khô, un khói trong những bụi trâm bầu để bắt những con bọ rầy – mà chúng tôi gọi là “bù rầy” – đem về bẻ xếp hai cánh, thổi phù phù cho bay chơi…rồi đào hang bắt dế về cho đá chơi. Những trò chơi tuổi nhỏ của một thời thơ ấu sao mà nó ghi sâu vào tâm khảm của tôi không thể nào quên được. Tuổi càng cao, càng thấy nhớ quê hương nhưng muốn về quê để gởi nắm xương tàn thì coi bộ hơi…bị khó! Đất quê không “sinh sôi, nảy nở” mà con người thì ngày một “nảy nở, sinh sôi”. Bây giờ, giá trị đất đai coi bộ nặng hơn tình máu mủ, nghĩa ruột rà. Vả lại mình làm kẻ mất quê hương, bỏ quê đi biền biệt không về mà bây giờ trở về bảo…chia đất, cất nhà để “dưỡng già” thì coi sao được?! Thế nên, nếu có nhớ, có thương mảnh đất “chôn nhao, cắt rún” thì lâu lâu về một lần, thắp nhang trước mộ ông bà, tổ tiên, thăm hỏi bà con, láng giềng, hàng xóm rồi lại ra đi. Làm người mất quê hương ngay trên mảnh đất quê mình, vậy thôi! Như vậy mà có khi còn tốt hơn ấy chứ!
Hoàng Đức
Hương Cau Quê Ngoại
Thương nhau thì ném bả trầu,
Ghét nhau, ném đá bể đầu nhau ra!
Thương nhau – cau bảy bổ ba
Ghét nhau – cau bảy bổ ra làm mười… ( ca dao Việt Nam )
Bài ca dao cứ theo tôi đi suốt quãng đời niên thiếu, có người đọc là “…cau sáu bổ ba…” Thôi thì, cau sáu hay cau bảy, bổ ba hay bổ tư gì đó thì cứ mặc kệ người ta, và điều tôi muốn nói ở đây là hương cau nơi quê ngoại của tôi. Những ngày xưa thơ ấu sống nhờ nơi quê ngoại, mỗi tối khi mà ngoài trời mưa gió rỉ rả, tôi nằm co như con mèo con, đầu gối lên đùi bà, còn ngoại tôi thì vừa têm trầu, vừa đọc cho tôi nghe những bài thơ có từ xửa, từ xưa. Ngoại tôi không biết chữ nhưng thuộc rất nhiều thơ, nhiều bài rất hay.
Nhưng có một bài thơ, nói về tình anh em, nghĩa vợ chồng rất cảm động tên là “Sự tích trầu cau”, mà cho dù đã hơn bốn mươi lăm năm trôi qua, tôi vẫn còn nhớ tới bây giờ:
“Nước Việt, năm Hùng Vương thứ bốn
Nhà họ Cao sinh đặng hai trai
Giống nhau như đúc chẳng sai
Tân là anh lớn, em thời tên Lang.
Cùng nhau trọ học bên làng
Có cô thiếu nữ đem lòng yêu thương
Nhưng chẳng biết ai là anh cả?
Vì hai người giống quá như in!
Cô liền mời một bữa cơm
Dọn một đôi đũa, rình xem thế nào…
Lang nhường đũa cho Tân gắp trước
Thế là nàng biết được người anh.
Thuận tình kết mối duyên lành
Cùng nhau chung sống ái ân nồng nàn
Quá yêu vợ - anh em lạt lẽo
Lang buồn rầu, thất thểu ra đi!
Đến bờ một ngọn suối kia
Chàng Lang gục chết hồn lìa cõi dương
Hoá ra cục đá bên đường
Trơ trơ phó mặc gió sương dãi dầu.
Thương em chẳng biết để đâu
Chàng Tân cũng lại buồn rầu ra đi
Đến bờ một ngọn suối kia
Rồi cũng gục chết bên bờ nước xanh!
Hoá thành cây cao hơn mười thước
Tàu lá thì xanh mượt, trái tròn.
Đợi chồng, vợ đã mõi mòn
Nàng đành cũng phải lên đường tìm nhau!
Đến ngay suối nước năm nào
Nàng cũng gục xuống, chết theo người chồng
Hoá thành một loại dây cong…
Leo quanh cây nọ như còn yêu thương!
Dây ấy là dây trầu không
Còn thân người chồng tên gọi cây cau
Lại đem hòn đá nọ vào
Nung trong lửa đỏ, có màu trắng trong
Gọi là vôi, mùi nồng sắc đá
Trộn vào cau, với lá trầu không
Nhai ra, có sắc đỏ hồng
Cho là chuyện lạ, Hùng Vương truyền rằng:
Hoặc trong đám cưới, đám tang
Hay là tiếp khách đều dùng trầu cau!
Nhân dân nghe lệnh bảo nhau
Trồng cau, trồng trầu xanh tốt khắp nơi.
Chuyện xưa để lại đời đời
Ông bà thường kể cho bầy cháu nghe
Mối tình kỳ lạ xưa kia
Trầu - cau tích ấy bây giờ còn ghi!”
Nhà ngoại tôi có trồng một hàng cau – không nhiều – khoảng hơn hai chục cây, mà cây nào cây nấy cao ngất nghễu. Hàng cau đó đủ cho ngoại tôi ăn trầu quanh năm và biếu hàng xóm, mỗi lần nghỉ hè về quê tôi rất thích ra đứng dưới hàng cau vào mỗi buổi sáng sớm, căng lồng ngực ra mà hít vào phổi, vào tim cái hương cau, nó lơ lửng, say say, nó nồng ấm như mùi trầu vương trên áo ngoại tôi! Tôi rất thích trèo hái cau cho ngoại – mặc dù ngoại tôi không cho tôi trèo – nếu cần tỉa cau thì ngoại kêu các cậu, hoặc nhờ mấy đứa nhỏ hàng xóm. Vì ngoại sợ tôi té, tôi mà té thì ngoại đau lòng lắm! Vì tôi là đứa cháu được ngoại cưng nhất trong đám cháu ngoại trên…chục mười ba! Nhưng tôi vẫn khoái trèo cau và trèo rất giỏi, người ta nói: “Có phúc đẻ con biết lội, có tội đẻ con biết trèo!”. Mà tôi thì trèo hay lội gì tôi đều biết cả…không biết mẹ tôi có phúc hay có tội đây? Trèo cau có cái thú của nó, cứ thắt một cái “nài” bằng dây chuối khô, đem nhúng nước cho dẻo, cho dai lồng hai chân vào đó rồi hai tay vịn vào cây cau để lấy thăng bằng, hai chân cứ đạp vào thân cau mà phóng lên cao. Lên tới đọt cau rồi mới thấy thú vị, gió mát thổi lồng lộng, nhìn xa hơn một chút thấy cả bờ sông cái, bỏ nài ra quắp chân vào thân cau, tay giựt những buồng cau lúc lỉu trái mà quăng xuống. Cậu tôi thì lận dao con chó vào lưng, thứ lưỡi dao bén ngót đưa qua một cái “sột” là cả buồng cau cứ gọi là rơi độp nhé! Tôi thì không lận dao cứ hai tay mà giựt cho buồng cau rụng xuống, bẻ xong một cây rồi thì a- lê- hấp, níu chặt lấy thân cau mà lắc qua, lắc lại cho đến khi cây cau nầy chạm vào cây cau kia - vì mỗi cây cau cách nhau chừng hơn một mét - thì buông cây nầy ra, với tay chụp cây kế bên như làm xiếc! Cứ thế mà đi hết hàng cau rồi…tuột xuống. Còn nhớ lúc mới tập bẻ cau lần đầu tiên, tôi bẻ một cây rồi tuột xuống, leo lên cây thứ hai…mới có ba cây mà đã mỏi nhừ, cậu tôi cười bảo phải vít ngọn mà chuyền qua mới đúng bài bản của dân bẻ cau. Còn mỗi cây mỗi tuột xuống, leo lên thì đến…Tết Ma rốc mới bẻ hết hàng cau của ngoại! Tôi nghe lời tập leo cau, chuyền ngọn mà trong bụng thì cứ ấm ức không biết Tết Ma rốc nó có giống…Tết Việt Nam không! Ngoại tôi thấy tôi chinh phục được hàng cau chỉ còn biết lắc đầu “Cái thằng, dân thành phố mà leo cây như…khỉ!”. Ngoài tài leo cau ra, tôi leo dừa cũng số một, leo lên tới cổ hủ dừa rồi thì vặn trái dừa cho rời khỏi cuống. Rồi dùng răng cạp vào vỏ dừa, xé một miếng cứ hai trái buộc làm một chùm, mang vào cổ làm chừng vài ba cặp rồi tuột xuống khoan khoái, nếu ai nói leo dừa, đem xuống mà số dừa là số lẻ thì…leo cây gì đó chứ không phải… leo dừa rồi!
Năm tháng trôi đi, quê ngoại tôi là vùng chiến sự lại là vùng trắng, vùng phi pháo tự do nên hàng cau quê ngoại rồi cũng bị bom đạn làm cho tan nát. Bây giờ mỗi lần về quê ngoại là tôi lại ra đứng lặng trước sân nhà, nơi có hàng cau năm cũ mà bồi hồi nhớ về kỷ niệm xưa. Ngày nay, đâu còn có mấy người ăn trầu nên cây cau rồi có lẽ cũng đi vào quá khứ, có còn chăng là trong ký ức của tuổi thơ!Hoặc khi có đám cưới, nhà trai thường dẫn lễ bằng trầu cau, lúc ấy trầu cau mới sống lại cái hương vị cổ tích ngày xưa!
Ôi! hàng cau nơi quê ngoại còn đâu nữa, biết bao giờ tôi mới được trèo hái như ngày xưa?
Hoàng Đức
Bánh Lá
Có lẽ, ai một lần trong đời cũng đã từng ăn bánh lá - thứ bánh bình dân, dễ làm và rất ngon - tượng trưng cho hương vị quê nhà. nếu có đi xa quê hương, mỗi lần thấy món bánh lá lại nhớ quê đến trào nước mắt.
Những ngày tuổi nhỏ, mỗi khi nghỉ hè là chị em tôi hay về quê chơi với ngoại. Quê tôi nghèo, dù không phải là “đất cày lên sỏi đá” nhưng nó vẫn nghèo, có giàu chăng là tình người, tình đất mênh mông, bao la như dòng sông Cửu Long đầy ắp phù sa chảy qua đây. Quê tôi vốn là một nơi xa chợ, xa đường nên tuổi thơ ở đây luôn phải chịu nhiều thiếu thốn về vật chất, chúng tôi cũng không ngoại lệ. Thương cháu, bà ngoại tôi và các dì, các cậu hay làm những thứ bánh dân dã cho chúng tôi ăn, để đỡ nhớ nhà. Món bánh lá là thông dụng nhất và cũng dễ làm.
Những ngày tuổi nhỏ, mỗi khi nghỉ hè là chị em tôi hay về quê chơi với ngoại. Quê tôi nghèo, dù không phải là “đất cày lên sỏi đá” nhưng nó vẫn nghèo, có giàu chăng là tình người, tình đất mênh mông, bao la như dòng sông Cửu Long đầy ắp phù sa chảy qua đây. Quê tôi vốn là một nơi xa chợ, xa đường nên tuổi thơ ở đây luôn phải chịu nhiều thiếu thốn về vật chất, chúng tôi cũng không ngoại lệ. Thương cháu, bà ngoại tôi và các dì, các cậu hay làm những thứ bánh dân dã cho chúng tôi ăn, để đỡ nhớ nhà. Món bánh lá là thông dụng nhất và cũng dễ làm.
Muốn làm bánh lá thì hôm trước ngoại tôi phải lấy gạo ngâm, xong rồi bỏ vào cối đá, xay nhuyễn thành bột. Mà cái vụ xay bột này tôi rất khoái, cứ đeo lấy giằng cối xay mà đòi đẩy, nặng dễ sợ luôn. Phá chơi chứ xay làm sao nổi, các dì tôi sức lực điền mà còn ì ạch khi xay bột, nói chi tới cái thằng tôi ốm như cọng hành! Bột xay xong rồi bỏ vào bao, “bồng” lại để ngày hôm sau “nắn” bánh, ngoại tôi phân công các dì, các cậu người thì đi “róc” lá dừa nước, người thì đi hái lá “thúi địt”. Nói xin lỗi, bánh lá mà không có lá “thúi địt” pha vào thì không còn cái hồn của bánh lá nữa, cũng có người làm bánh với lá dứa nhưng làm sao bằng lá “thúi địt”. Lá dừa nước hái về cả nhà xúm lại lặt cho hết những cái “mắt” lá, lau sạch rồi bóc bột nặn dài theo chiều dài của cọng lá dừa nước. Khi thấy nhiều rồi thì bỏ khoanh tròn vào cái “xững” hấp đang sôi sùng sục trên bếp lò, bánh chín lấy ra gỡ bỏ vào mâm, vào dĩa gì đó rồi tiếp tục nặn cho tới khi nào hết bột thì thôi. Tôi khoái nhất là thỉnh thoảng “nhón” một cục bột nặn thành hình con trâu, len lén bỏ vào nồi hấp để chút nữa lấy ra ăn, cục bột bấy giờ không thành con trâu mà thành cái con gì ấy. Không sao, cứ chấm nước cốt dừa là chơi tuốt, bệnh gì mà cữ? Các cậu thì leo bẻ dừa, nạo vắt làm nước cốt, bánh lá mà ăn với nước cốt dừa thì phải nói là tuyệt trần đời, không có gì ngon hơn thế. Ngoài món bánh lá ra, các dì tôi còn nấu chè “trôi nước” có nhân đậu xanh, chè “lủm chủm” tất cả đều bằng bột gạo, xay ra từ hạt gạo của quê nhà mà tuổi thơ của chúng tôi được thưởng thức, nếu đem so sánh thì không có gì ngon hơn thế!
Bây giờ, cuộc sống văn minh, hiện đại quá nên cái gì cũng có sẵn. Muốn làm bánh bằng bột gì cũng đều có bán tại các cửa hàng, người mua chỉ việc mua về rồi pha, chế, đâu có ai ở không mà đem gạo đi ngâm, đi xay. Nhiều lúc, thấy nhơ nhớ món bánh lá, cất công đi tìm “đỏ con mắt bên phải, xốn con mắt bên trái” mới được một người bán bánh lá. Nhưng khi ăn vào sao vẫn cảm thấy thiêu thiếu một cái gì đó…Tại bột pha sẵn không ngon hay là thiếu đi cái hương vị của “lá thúi địt” mà người ăn cảm thấy không ngon? Tốc độ “đô thị hoá” đã làm những giàn lá thúi địt mọc ven sông, ven rào bị tàn phá rồi, còn đâu mà làm bánh? Lá dừa nước dùng để nặn bánh bây giờ cũng rất khó tìm giữa cái thành phố toàn nhà cao tầng. Cũng có thể thay thế lá dừa nước bằng lá mít, nhưng nó lại mất đi cái hình dáng dài theo khuôn lá dừa nước, ăn cũng không thấy ngon. Ôi! Bây giờ sao tôi thèm một dĩa bánh lá nặn trên lá dừa nước, có mùi của lá thúi địt, có vị beo béo, mằn mặn, ngòn ngọt của nước cốt dừa quê tôi đến vậy, thèm và nhớ quê đến nao lòng.
Phạm Hoàng Đức
Mùa Dế Và Những Ký Ức Tuổi Thơ
“Những cơn mưa đầu mùa thường làm đau cây lúa.
Những cơn mưa đầu mùa thường làm ướt cánh chim..!”
( lời bài hát của nhạc sĩ Trần Long Ẩn )
Mặc dù bây giờ tuổi đã cao, tôi vẫn còn đam mê một thú vui tuổi nhỏ, đó là chơi “đá dế” và đá cá “lia thia”. Chơi dế không tốn tiền bằng chơi cá lia thia, không nguy hiểm bởi vì ai cũng có thể và có quyền sở hữu từ một con đến vài chục con dế, ăn thua là có chịu bỏ công đi tìm bắt hay không thôi!
“Mùa dế” bắt đầu khi những cơn mưa đầu mùa đổ xuống.Khi mà những hoa phượng vỹ đã bắt đầu đỏ rực trên cành, là lúc chúng tôi - những đứa học trò tiểu học - của những năm 60 – 70 - xếp bút nghiên, sách đèn lại để nghỉ hè, bây giờ là mùa Hè mà! Tụi tôi đêm nào cũng ra ngoài những cây cột đèn đường, dõi mắt nhìn lên chờ những chú dế bay mỏi cánh sẽ đáp xuống đất. Lúc ấy thì mạnh đứa nào, đứa nấy chạy a lại, thò tay chụp, bắt…có lúc hai ba thằng giành giật nhau một con dế! Khi kẻ thắng cuộc bắt được con dế rồi, mở bàn tay ra để xem và xẹp mất nguồn hý hững vì…con dế đã dẹp lép!
Chơi dế thì phải chọn dế trống, mạnh mẽ với cặp giò gai góc và hai bàn nạo to, tiếng gáy phải to và thanh mới là không bỏ công rình mò bắt dế! Dế chọi ( dế đá ) chỉ có hai loại: “Dế than”- đen thui toàn thân, và “dế lửa” - thân hơi ửng màu đỏ, còn cánh thì vàng tươi, hoặc vàng đỏ. Cũng có những chú dế “lai” cánh có màu nâu đỏ hoặc nâu đen, những chú dế lai nầy thường thì chẳng đá đấm gì ra hồn cả, phải là dế “rặt” cơ! Hộp dùng đựng dế thì cũng đủ loại, có đứa tỉ mẩn dùng đất sét nặn thành cái hộp để bỏ dế, có ngăn chứa cỏ, ngăn cho dế ở đàng hoàng. Có thằng thì dùng hộp thuốc tể, trên có miếng kính bán ở các tiệm thuốc Bắc để đựng, lại có thằng dùng cả cái thùng “Cạt – tông” để nuôi dế, thức ăn cho dế thì cứ bứt cỏ lứt hoặc rau sam mà cho ăn. Bắt dế trong nội ô, dưới những bóng đèn nhiều khi không hấp dẫn lắm, chúng tôi rủ nhau ba, bốn đứa xách theo cây cuốc, cái thùng thiếc nhỏ đi vào những đám ruộng ( chổ khu Sao Mai bây giờ ) để…đào dế. Mà đi đào dế cũng phải kiên nhẫn lắm mới được, bởi vì gió đồng thổi ào ào bên tai mà phải lắng nghe tiếng dế “gáy” mới mò tìm hang, thằng thì đổ nước, thằng thì bẻ cây chặn lối chú dế tội nghiệp, thằng thì xách cuốc đào cật lực mới tóm được…một chú dế than hoặc dế lửa trống và…ba, bốn chị dế mái! Có khi chú dế đang gáy ngon lành, bổng chuyển “tông” xuống “chắt mái”! Cái nầy còn khó hơn, bởi tiếng chắt mái nhỏ xíu hoà vào gió đồng ù ù thổi thì phải là người có kinh nghiệm lắm mới dò tìm đúng hang. Cũng có khi đào hang bắt dế mà gặp…một chú rắn Hổ đất phóng ra, ngóc đầu phùng mang thở phì phì thì mạnh thằng nào nấy chạy! Trong đám bạn của tôi hồi tiểu học có thằng Xuân là gan lỳ nhất, gặp rắn là nó xách cuốc nhào tới “chơi” luôn! Nhiều lúc nó bắt được những con rắn “Hổ đất” to nặng đến vài ký, dài cỡ hai mét luôn! Nó đem rắn về cho ba nó “nhậu”, cứ thế chúng tôi bắt dế, còn nó thì…bắt rắn! Cũng có khi tôi về nghỉ hè ở quê ngoại, tôi và cậu Út cũng xách thùng “ba-sa” cuốc, đi đào dế cậu cháu tôi bắt được vô số dế mà toàn là dế than, dế lửa cỡ bự, con nào cũng to bằng ngón tay cái người lớn! Còn nhớ, tôi sở hữu một chú dế than to, rất lỳ đòn không chạy bao giờ, tôi đặt tên nó là “dế lỳ” cậu tôi cũng có một con dế lửa ưng ý nhất, đặt tên “Triệu Tử Long” nghe… Tàu không chịu được! Tôi mang con “dế lỳ” của mình đi đá khắp xóm, không có đối thủ! Cậu tôi cũng vậy, thế là…cậu cháu tôi quay ra đá dế với nhau, ngắt một cọng tóc tròng vào cổ con dế của mình, thổi phù phù cho dế bay và “say máu ngà” ( có khi bị “tổ trác” vì lúc dế giang cánh bay, lúc xếp cánh lại có chú…xếp ngược cánh, tiếng “gáy” nghe rè rè, nhỏ xíu lúc đó được dịp cười thoả thích nhé ) rồi thả vào cái hộp giấy, hoặc hộp sắt tây cho đá với dế của đối phương. Dùng một cây chân nhang, quấn vào đó vài cọng tóc, có khi ngắt đầu một con dế nào đó cắm vào chân nhang rồi cứ thế mà “ráy” cho dế hăng lên, lùa cho hai con dế đối đầu nhau để thư hùng. Con nào chạy là thua, chứ không như đá gà có con phải nằm tại chổ! Nếu đá theo kiểu “bắt xác” thì người thắng được phép bắt con dế của người thua, đem về cho…gà ăn! Mà dế thua chỗ nầy, lại thắng chỗ khác nên tôi cứ là thích mê. Tựu trường, tôi mang con “dế lỳ” của mình lên thị xã, đá bay các con dế của đám bạn học, chúng nó cứ xuýt xoa khen ngợi…Cuối cùng, chơi chán, tôi đổi con dế cho một thằng bạn, lấy hai cuốn truyện tranh Tây du ký.Trước cửa trường cũng có những người bán dế trong những cái lồng bằng lưới, đám bạn thị xã không có điều kiện đi bắt dế xúm lại mua, rồi giờ ra chơi cũng tổ chức đá dế, nhưng dế loại nầy rất nhát và đá rất “ẹ”! Nên tôi không bao giờ mua.
Tới bây giờ, tôi vẫn còn khoái chơi dế, nhiều khi dế bay vào sân nhà theo những bóng đèn “nê-ông” sau trận mưa đầu mùa, cha con tôi cũng tìm bắt vài con, thả vào hộp nuôi, lâu lâu đem ra cho chúng đá với nhau, và để nghe dế “gáy”! Tiếng dế nỉ non trong đêm trường cô tịch trong khu nhà ở toàn bê-tông, làm sống lại biết bao nhiêu kỷ niệm thuở ấu thơ, sao mà da diết nhớ thương làng quê, nhớ những cánh đồng lộng gió, nhớ thương thời tuổi nhỏ quá đi thôi!
Phạm Hoàng Đức
Tấm Ảnh Ngày Xưa
“…Tấm ảnh ngày xưa đã nhạt màu
Đâu còn lưu lại đến mai sau
Câu thơ run rẩy pha dòng lệ
Lệ nhỏ trong tim ngở máu đào…”
Tình cờ, tôi gặp lại thằng Xuân - bạn thân thuở còn học tiểu học - Nó cố chèo kéo tôi về nhà nó. Ừ, thì đi cho biết bạn bè của mình sống như thế nào cũng tốt thôi, mấy mươi năm rồi, còn gì!
Tình cờ, tôi gặp lại thằng Xuân - bạn thân thuở còn học tiểu học - Nó cố chèo kéo tôi về nhà nó. Ừ, thì đi cho biết bạn bè của mình sống như thế nào cũng tốt thôi, mấy mươi năm rồi, còn gì! Sau màn giới thiệu tôi với vợ con, nó sai vợ của nó đi mua một lít rượu. “Ít thôi mày, rượu bây giờ pha toàn là men công nghiệp với nước giếng, uống dễ “đai” lắm đó con!” Tôi “khuyến cáo” nó. “Hai xị một thằng chứ nhiều nhỏi gì!”, nó đáp. Mồi nhậu chẳng có gì quý giá, chỉ là vài trái cà nâu nướng trên bếp than, trộn với mỡ hành mà cũng ngon ra phết, hai thằng cứ cụng ly ào ào mà nghe tình bạn thắm thiết dâng trào…Vừa nhậu, vừa nói chuyện trên trời, dưới đất, chuyện gia đình, chuyện bạn bè một thuở, thằng nào còn sống, thằng nào đã đi vào cõi hư vô! Chợt nó nheo mắt, nói nhỏ với tôi: “Tao sẽ cho mày coi một thứ, bảo đảm bây giờ không có thằng nào còn giữ”. Rồi nó lấy quyển “an-bum” cũ ra, rút trong đó ra một tấm ảnh đã cũ xì, màu nước ảnh đã hơi ố vàng theo năm tháng nhưng những người chụp trong tấm ảnh đó thì còn xem rõ lắm. Nó hỏi tôi: “Mày biết hình gì không?” Tôi ngó tấm ảnh, cứ ngờ ngợ bởi những gưong mặt quen thuộc trong đó… “Khoan nào, tao nhớ rồi, đây là hình chụp lúc tụi mình học lớp Ba “3”, đúng không? Có cô X…nè!” Nó vỗ đùi cái “đét”: “Xê hát…y…chang!” Rồi hai thằng chụm đầu, xem những gương mặt thân thương của một thời tiểu học “…Nhất quỷ - nhì ma…” Từng kỷ niệm cũ cứ tràn về, vỡ oà trong tôi như con nước lũ tháng Mười .
Hồi đó, khi chúng tôi đi học bậc tiểu học, nhà trường có cái “truyền thống” là hễ cứ cuối năm học thì cả lớp cùng với thầy, cô chụp một tấm ảnh lưu niệm. Hình chụp xong rồi, tuỳ theo số lượng học sinh đóng tiền rửa ảnh mà các bác “phó nháy” rửa ra, giao cho mỗi em một tấm để làm kỷ niệm. Thầy cô giữ một tấm, nhà trường giữ một tấm để lưu vào sổ truyền thống của trường…Từ năm lớp Năm cho tới năm lớp Nhất (tức lớp Một cho tới lớp Năm ngày nay - sau năm 1968 mới bắt đầu đổi thứ tự của lớp thành 1, 2, 3, 4, 5…như hiện nay), năm nào cuối niên học chúng tôi cũng đều có chụp ảnh chung như thế. Của đáng tội, hồi đó nhà tôi nghèo má tôi đâu có cho tiền đóng để “rửa” ảnh, nên tôi không còn lưu giữ tấm nào cả! Chỉ đến cuối năm lớp Năm (1970) má tôi mới cho tiền tôi chụp mấy tấm ảnh 4x6 để dán vào hồ sơ, xin thi tuyển vào lớp Sáu. Thế nên, trong hành trang tuổi học trò tiểu học của mình, tôi chẳng có một chút gì để lưu lại cho mai sau. Thằng Xuân - bạn tôi - ngồi chỉ cho tôi xem từng gương mặt bạn bè, và “thuyết minh” thằng nào, tên gì, còn sống hay chết…Công nhận tôi có trí nhớ tốt, nó còn nhớ tốt hơn tôi! “Mầy nhìn ra mầy không, thằng quỷ sứ?” nó hỏi tôi, “Sao không” – tôi trả lời mà mắt dâng lệ. mũi cứ cay cay khi nhìn vào tấm ảnh ngày xưa. Tôi đây nè, nhỏ con – nhưng là “liên toán trưởng” - nên luôn đứng hàng đầu. Cạnh bên tôi là cô giáo dạy năm lớp Ba với gương mặt phúc hậu, thằng Xuân thì đứng sau lưng tôi bởi vì nó cao hơn tôi một…cái đầu. Tôi bồi hồi, xúc động, hình ảnh hãy còn đây mà người xưa đã mịt mờ nơi đâu? Trong đám bạn bè xưa, có đứa nào còn sống như tôi và Xuân? Đứa nào đã “về nơi gió cát?” Đứa nào phiêu bạt nơi góc biển, chân trời…Ôi! Bạn bè một thuở của tôi ơi! Bây giờ các bạn đang ở đâu trên dải đất hình cong chữ S này? Có nhớ đến tôi như tôi đang nhớ đến các bạn không? Tôi rưng rưng nước mắt, thằng Xuân cũng…nước mắt rưng rưng. Một lúc sau, nó phá tan cái không khí ảm đạm: “Thôi mày! nam tử hán, đại trượng phu mà khóc như…đàn bà, coi sao được?” “Vậy chứ mày cũng khóc đó, bộ mày là…pê đê hả?” – tôi nói - Hai thằng cùng cười mà nước mắt cứ tuôn tràn. Thương nhớ các bạn đã một thời dùi mài kinh sử. Nhớ cái kỷ niệm những ngày thơ còn đùa giỡn vô tư lự bên nhau.
Kết quả, để phá tan cái không khí u buồn đó, tôi và nó “chơi” hết …bốn xị, tức là một lít vậy mà cứ tỉnh bơ! “Chà, lúc này mày nhậu cứng ngắc” nó khen tôi. “Cứng cái gì, rượu “dỏm” mày ạ, uống hoài mà không “xí nhê” gì ráo…” Hai thằng cùng cười, rồi nó lấy cây đàn “ghi-ta” sứt sẹo ra, so dây bắt tôi hát bài “Trường cũ tình xưa”…Tôi chìu lòng nó, tiếng hát cứ bay cao, hoà cùng tiếng đàn “nghiệp dư” bập bùng, lóng ngóng như thuở nào tôi thường hát cho tụi nó nghe: “…Bạn cũ xa rồi, có người về đất buông xuôi. Dăm ba đứa bạt phương trời…”
Hoàng Đức
Trường Cũ - Tình Xưa
“Hôm nay tôi trở về thăm trường cũ…” bỗng dưng lời bài hát “Trường cũ – tình xưa” một thời được các bạn học sinh yêu thích lại tràn về, oà vỡ trong tôi đến nghẹn ngào, khi tôi về thăm trường cũ – trường tiểu học cộng đồng Vòng Nhỏ xưa – là trường Nguyễn Huệ ngày nay!
Tôi tình cờ về thăm trường cũ thôi, nhân ngày đi thăm thằng bạn thân, sống gần trường Nguyễn Huệ, nó trách tôi sao lâu quá không thấy tôi và những thằng khác - cái đám học trò “nhất quỷ - nhì ma - thứ ba học trò” một thuở của trường - về thăm lại trường xưa? Tôi chỉ cười cười và chân thành nhận lỗi với nó, với mái trường xưa, chứ nó đâu có biết cuộc đời lang bạt, trôi nổi của tôi trong suốt những tháng năm dài. Đến quê hương “chôn nhau, cắt rốn” còn chưa về thăm được thì với trường xưa tôi chỉ còn biết hoài niệm mà thôi! Nó dẫn tôi đi vòng vòng trong sân trường, tôi lạ lẫm với những đổi thay quá nhiều của trường xưa, đâu rồi những lớp học mà tôi và nó, cùng những thằng bạn khác ( mà có đứa đã về cùng cát bụi lâu lắm rồi! ) đã từng theo học suốt quãng đời học sinh tiểu học? Trường tôi, ngày tôi còn đi học nho nhỏ, với ba dãy lớp học lợp ngói đỏ, nằm quay vào nhau, cùng hướng mặt ra cột cờ, có một cái ao nước rất lớn mà có đứa đã suýt chầu “Hà Bá” vì không biết bơi mà dám lội xuống…bắt cá rô! Ngày đó, có những buổi nghỉ học, chúng tôi hay qua “tịnh xá Ngọc Tường” chơi với các nhà sư, nghe kể chuyện Phật, xin những chiếc lá “Bồ Đề” hình trái tim về làm lá “thuộc bài” tặng cho các bạn nữ sinh! Dãy lớp mà ngày xưa tôi theo học lớp Nhì, lớp Nhất bây giờ đã đập bỏ thay vào đó là một dãy nhà lầu “hoành tráng” rất to, đẹp! Chỉ còn dãy lớp phía Đông - Bắc là vẫn còn, nhưng nghe đâu cũng sắp đập để xây mới! Cũng đúng thôi, học sinh bây giờ đông, học cũng nhiều hơn chúng tôi ngày ấy. Thì trường lớp cũng phải to rộng để các em có chổ mà học hành chứ! Biết luật đời là phải vậy, phải thay đổi những cái cũ, lạc hậu, lỗi thời bằng những cái mới hơn, đẹp hơn…nhưng sao tôi vẫn nghe một nỗi ngậm ngùi, một cái gì đó hình như là nuối tiếc cồn cào trong tâm khảm! Tôi đi vài vòng trong sân trường ngổn ngang vôi gạch, mà lòng khắc khoải, từng góc sân, từng miếng đất nơi đâu cũng ghi dấu những kỷ niệm của tuổi học trò thời áo trắng tinh khôi! Đây là chổ chúng tôi chơi bắn bi, đây là nơi chúng tôi chơi trò rượt bắt những lúc ra chơi, tôi nhớ những thằng bạn thân cùng học chung thời tiểu học, Xuân ơi! Nhóc ơi! Đâu rồi thằng Cang “vua trốn học” của lớp ba 7? Đâu rồi thằng Luật của lớp nhất 5? Tụi nó, có đứa đã dọn nhà về nơi nào thật xa, có đứa hy sinh trong chiến dịch mùa Xuân 1975, có đứa nằm lại trên chiến trường đất bạn hay nơi nào đó của dải đất hình chữ S trăm quý ngàn yêu này! “Bạn cũ xa rồi, có người về đất buông xuôi. Dăm ba đứa bạt phương trời…” lời hát xưa cứ cồn cào trong ký ức của tôi! Những giọt lệ của tôi, của thằng bạn tôi đã long lanh nơi khoé mắt! Mừng cho trường tôi đã mang diện mạo mới mà thương nhớ một thời học sinh tiểu học, với những thằng bạn như thằng Luật, mới học lớp Nhất mà cứ nơm nớp lo bị bắt “quân dịch” vì to xác do khai sụt tuổi! Tôi may mắn còn gặp được chú Tư “tuỳ phái” – người đánh trống trường và đưa sổ đầu bài cho các lớp - ngày tôi còn đi học. Chú Tư đã lớn tuổi nhưng còn minh mẫn lắm, chú nhận ra tôi ngay, vì tôi – xin lỗi – năm nào cũng lên bục nhận phần thưởng hạng Ưu, cao nhất của các cấp lớp bậc tiểu học (năm cuối của bậc tiểu học tôi còn được nhận phần thưởng Danh dự của đại tá Lê Minh Đảo - lúc đó là tỉnh trưởng tỉnh Định Tường xưa - Tiền Giang bây giờ)! Chào tạm biệt chú Tư, chia tay thằng bạn học cũ, tôi từ từ đạp xe ra về, trong lòng cứ trào dâng những cảm xúc không lời. Vui, buồn lẫn lộn, hỡi những người bạn thân yêu của tôi thời tiểu học, bây giờ các bạn ở đâu? Ơi! Các thầy, các cô dạy chúng con xưa bây giờ các thầy, cô ở đâu? Các thầy, các cô, các bạn có biết cho trong lòng tôi giờ nầy là nỗi nhớ thương da diết kỷ niệm dưới mái trường xưa! Ai đi đâu, có khi nào quay về thăm lại trường xưa mà nghe tình cũ dậy lên, cồn cào trong ký ức hay không? Bốn mươi mấy năm trôi qua rồi, trường xưa ơi!
Hoàng Đức
Ký Ức Mùa Tựu Trường
Bây giờ, tuy sự nghiệp dở dang, học hành …dang dở; nhưng mỗi lần nhìn các em nhỏ tung tăng đến trường trong ngày khai giảng niên học mới là lòng tôi cứ nao nao khó tả…Cái cảm giác tuổi thơ áo trắng cứ ùa tới và vỡ òa trong tôi như những con sóng nhỏ!
Còn nhớ, trước đây sau kỳ nghỉ hè đầy thi vị ở quê nhà, chỉ còn khoảng nửa tháng, một tuần gì đó đến ngày khai trường là chúng tôi lại trở về nhà, lúi húi mua giấy bóng bao tập, dán nhãn, mua những viên mực tím xinh xinh về ngâm trong bình mực cũng xinh xinh, thay những ngòi viết lá tre đã han gỉ bằng những ngòi bút mới, sáng loáng. Chúng tôi háo hức đợi chờ ngày khai trường với tâm trạng vô tư của những đứa trẻ ngây thơ chưa hề vướng bận chuyện “cơm, áo, gạo, tiền”. Chúng tôi chỉ mong gặp lại bạn bè sau ba tháng hè cách biệt – dù năm học mới có đứa còn, đứa mất đứa lên lớp, đứa ở lại lớp – để hàn huyên tâm sự, để kể cho nhau nghe về những ngày hè ở quê nhà. Ôi, nhớ làm sao những bài thơ nói về ngày khai giảng:
“…Ba tháng hè xa thầy và cách bạn
Hôm nay về họp mặt rộn ràng sao
Lòng lâng lâng bao cảm giác nao nao
Cùng cảnh đẹp huy hoàng đang mở hội.
Từng đàn em tung tăng, quần áo mới,
Nắm tay nhau truyền nỗi nhớ, niềm thương
Kể chuyện ngày sum họp ở quê hương
Bao kỷ niệm bừng lên trong ánh mắt
Chim trên cành đang hòa ca khúc nhạc
Nắng tươi hồng trải lụa xuống đường mai
Tất cả hân hoan cắp sách, ôn bài
Cùng thầy, bạn bắt đầu niêm học mới…”
( Trần Huyền Trân )
Sau ba tháng hè dài đăng đẳng, chúng tôi mong gặp nhau để trút cạn tâm tình tuổi nhỏ, để khoe với nhau những ngày hè tuyệt vời ở quê nhà. Có đứa cứ “mắt tròn, mắt dẹt” khi chúng tôi tặng cho nhau những sưu tập mà chúng tôi kiếm được trong kỳ nghỉ hè:
“…bạn tặng tôi quà – cánh bướm xinh!
Với bông hoa lạ ép nguyên hình,
Nhìn hoa, bướm đẹp tôi mơ thấy:
Đồng nội thơm tho, cảnh thái bình!
………………………………….
Gửi bạn đôi con ốc nhỏ này…
Chắc là bạn cũng thấy hay hay
Hai tuần tôi sống nơi bờ biển
Sóng biếc, trời xanh…thật đắm say!
Trống học giờ đây đã điểm vang
Nhanh chân ta hãy xếp ngay hàng!
Giờ chơi, ta sẽ cùng nhau kể…
Những chuyện rừng xanh…bãi cát vàng!”
( Trần Huyền Trân )
Cứ thế, chúng tôi trao cho nhau những món quà xinh xinh nơi quê nhà, nơi nghỉ hè mà chúng tôi đã trải qua. Có đứa còn chơi cắc cớ, tặng đám bạn thị xã “ngơ ngác con nai vàng” nguyên một chùm…mắt mèo! Ngứa phải biết nhé!
Tuổi thơ đã qua đi không bao giờ trở lại, tuổi trung niên tất bật với bao chuyện “cơm, áo, gạo, tiền” trong cuộc sống đời thường. Mỗi lần chuẩn bị cho con vào năm học mới là mỗi lần các bậc làm cha, làm mẹ lại phải “sốt vó” vì vật giá cứ tăng cao mà nhu cầu học tập của con, em thì không thể thiếu thốn, nên mỗi mùa khai giảng là mỗi mùa lo lắng của các bậc phụ huynh - trong đó có tôi - Thế nên, cứ tạm nhủ lòng hãy quên đi những băn khoăn, trăn trở vì những khó khăn của cuộc sống, mà lo cho con em chúng ta được có ngày tựu trường thật tưng bừng, thật hạnh phúc và đầy đủ. Tất cả vì tương lai của con em chúng ta đi, hỡi các bậc phụ huynh!
HOÀNG ĐỨC
Chiếc Lá Thuộc Bài
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường…” của thế hệ chúng tôi lúc bấy giờ, có nhiều thứ sưu tập trong chuỗi ngày thơ mộng của tuổi học trò, nhất là các bạn nữ. Trong đó, “chiếc lá thuộc bài” là một thứ không thể thiếu trong hành trang “đi học” của các bạn!
Không phải vì các bạn lười học mà không thuộc bài đến đổi phải nhờ vào “chiếc lá thuộc bài”, nhưng hình như lúc bấy giờ “chiếc lá thuộc bài” cũng giống như một kiểu “bùa phép” của các bạn.(chứ không phải là “bùa phép” các cô cậu học sinh bây giờ hay mang theo khi vào phòng thi đâu!) “Chiếc lá thuộc bài” thường là lá “bồ đề” phải được hái trong sân chùa mới “linh”! Lá bồ đề hái về, đem ngâm dưới…đường mương hoặc nơi nào có nước chờ một thời gian, lá sẽ bị nước làm phân huỷ, phần thịt của chiếc lá tróc đi hết chỉ còn lại các sợi gân lá, rồi đem phơi cho thật khô. Xong, các bạn đem ngâm vào mực cho lên màu tím rất đẹp, rồi đem ép vào một trong số các quyển tập của mình! Các bạn nữ rất tin tưởng vào chiếc lá đó, có đứa còn quả quyết là từ lúc có “chiếc lá thuộc bài”, học bài…rất mau thuộc! Còn nhớ một kỷ niệm về “chiếc lá thuộc bài” này, xin được kể lại: “Năm tôi học lớp Nhì (tức là lớp bốn bây giờ), trong lớp có một bạn gái tên Thuý, trong giờ học nhỏ hay len lén dỡ tập ra để…xem chiếc lá thuộc bài còn trong đó không, hay là bị thằng quỷ sứ nào “cuỗm” mất rồi! Lúc đó, bọn con trai chúng tôi nghịch khiếp lắm, làm thì không làm cứ chờ cho các bạn nữ hoàn thành “tác phẩm” của mình thì đi “chôm” về làm của riêng! Xui cho Thuý, hôm kiểm tra cô giáo kêu từng đứa lên trả bài, trong lúc chờ tới phiên mình Thúy cứ lật tập nhìn vào chiếc lá, miệng lẩm nhẩm học bài. Cô nhìn thấy, cho là Thuý dỡ tập để “dò” bài, không cần hỏi nguyên do cô phạt Thuý một con “ốc vịt tọt” to tướng! Thuý khóc suốt buổi học vì bị oan…Mãi sau, cô tìm hiểu rõ ràng Thuý vốn nổi tiếng là “cây thuộc bài” trong lớp, không có lý gì lại dỡ tập để dò bài, nên được “trắng án!”
Ngày nay, các bạn học sinh tiểu học chắc không có ai biết sưu tầm những “chiếc lá thuộc bài” như thế hệ chúng tôi ngày xưa đâu nhỉ? Chiếc lá coi đơn sơ vậy đó, chứ nó gắn bó với bọn học sinh chúng tôi từ lớp Năm cho đến lớp Nhất (lớp một đến lớp năm bây giờ). Thậm chí khi vào đệ thất (lớp sáu) rồi, có bạn nữ vẫn còn lưu giữ những chiếc lá thuộc bài của một thời tiểu học, làm hành trang đi hết quãng đời hoa mộng của lứa tuổi học sinh! Không biết bây giờ Thuý và các bạn học chung của tôi hồi ấy có còn nhớ về chiếc lá thuộc bài này không nhỉ? Chắc là không, vì nó đã xưa…xưa lắm rồi! Hơn bốn mươi năm rồi, còn gì!
Hoàng Đức
Ký Ức Một Thời Học Sinh
Cho đến bây giờ, dù hơn năm mươi mùa Xuân đã đi qua trên mái đầu điểm bạc. Tinh thần, sức khỏe luôn bị chi phối vì những bận rộn của công việc, của những khó khăn trong cuộc sống đời thường…Nhưng, cứ mỗi lần nghe nhạc ve râm ran trên những cây phượng vĩ trổ bông đỏ rực. Là lòng tôi lại cứ nao nao, nỗi nhớ nhung khắc khoải về cái thời thơ ấu, cái thời mà còn là học sinh tiểu học dưới mái trường dấu yêu – trường tiểu học cộng đồng Vòng Nhỏ ( nay là trường Nguyễn Huệ, Phường 6. Mỹ Tho ) …
Vâng, thuở ấy suốt thời tiểu học tôi và những đứa bạn “ nhất quỷ, nhì ma, thứ ba…học trò “ cùng sát vai nhau, ganh đua trong học tập để đạt phần thưởng cao nhất cuối năm ( nói không phải nỗ, tôi luôn giành phần thưởng Ưu hạng cuối năm suốt thời tiểu học ). Nhưng đứa nào cũng buồn khi nghe nhạc ve sầu thê thiết và nhìn hoa phượng nở! Buồn hơn nữa là cứ nghe những bản nhạc mà nội dung cứ là gợi lên hình ảnh chia tay của mùa Hè, nào là “ Mỗi năm đến Hè lòng man mác buồn. Chín mươi ngày qua chứa chan tình thương…” cho đến “ Còn buổi học cuối cùng này thôi. Mai chúng ta giả biệt người ơi! Tâm sự đi những gì chưa nói….” Thú thật, dù lứa tuổi của chúng tôi lúc ấy chưa biết cái gì là chia ly, cách biệt. Nhưng nghĩ đến việc phải xa nhau trong ba tháng hè thì đứa nào cũng buồn! Biết đâu, ngày tựu trường vắng đứa nầy, thiếu đứa kia…vắng những lần đùa nghịch, trốn đi tắm kinh, đá bóng…cũng thấy nẫu cả ruột gan! Hồi ấy, chúng tôi nghỉ hè đúng ba tháng, không có học thêm, học bớt gì cả! Chỉ trừ cuối năm tiểu học đứa nào cảm thấy yếu thì đi học thêm lớp luyện thi đệ thất, để mong đậu vào trung học, còn không thì cứ thoải mái mà nghỉ hè!
Những năm đó là những năm chiến tranh …nên ba má tôi cứ hễ thấy êm tiếng súng một chút là gởi tôi về quê với ông, bà ngoại. Còn chiến sự ác liệt quá thì thôi, tạm nghỉ hè nơi phố thị vậy! Chứ làm gì có tiền mà đi nghỉ hè ở Nha Trang, Vũng Tàu, Đà Lạt…Nghỉ hè lúc ấy đối với chúng tôi là những ngày hạnh phúc, không phải bù đầu, bù cổ học bài ( nói cho ngay hồi đó đâu có học quá trời, quá đất như học sinh tiểu học bây giờ! Nghĩ mà tội cho các cháu )
Về quê thì có cái thú nghỉ hè riêng, tôi và đám bạn trang lứa dưới quê tôi, suốt ngày cứ dang đầu trần ra đá banh bằng những quả bưởi phơi khô, hoặc lá chuối khô cuộn lại, lâu lâu có người cho được cái bong bóng heo thổi lên mà đá ( hồi đó làm gì có banh nhựa, banh da như bây giờ! ) cứ thế suốt ngày tôi và tụi bạn trang lứa quần thảo nhau trên những đám ruộng vừa gặt xong còn thơm mùi rạ mới. Hoặc rủ nhau đi tát mương bắt cá tôm, không ít đâu nhé, hồi đó cá nhiều lắm, tát vài tiếng đồng hồ là bắt được cả vài thùng dầu hôi loại 20 lít, có đủ loại cá: lóc, rô, trê, thác lác, tôm càng, có khi vớ được vài chú rắn ri voi, ri cá, rắn nước mập thù lù…Rồi gom rơm rạ lại, đốt lên, nướng cá ăn thoải mái.ăn xong, cứ bụm nước ruộng hoặc nước nơi lỗ chân trâu mà uống ( bây giờ mà uống thì có mà giã từ gác trọ sớm thôi! ) Có khi rủ nhau đi “ ăn “ dừa nước, những trái dừa nước mọc ven sông rạch quê tôi cơm dày, trắng dẻo, cứ lấy dao bỗ ra, lấy ngón tay cái mà khượi bỏ vào miệng thì tuyệt vời! Hoặc tôi theo các cậu đi “ ăn” ong ruồi, ong mật…quấn một điếu thuốc bằng ngón tay cái, phun vài hơi thuốc là dùng dao chặt đem về cho ngoại tôi vắt lấy mật. Mỗi lần cũng được vài lít mật ong nguyên chất, trong veo, vàng óng để dành. Có khi chiều đến, ra đồng phụ lùa trâu, cứ ngồi vắt vẻo trên lưng trâu mà ca bài “ Em bé quê” của nhạc sĩ Phạm Duy thì còn sung sướng nào bằng! Nhưng có lẽ, cái mà tôi khoái nhất trong những những ngày hè nơi quê ngoại là….thả diều!Những con diều tự tay làm bằng giấy báo ( ông ngoại tôi thì kêu bằng “nhật trình” ) thả bằng những sợi dây gân dùng để câu cá, diều bay cao chúng tôi cột vào cành cây nào đấy rồi nằm ngửa mặt lên trời xem diều ai bay cao nhất….sướng biết chừng nào. Vì suốt ngày dang nắng nên khi trở lên thị xã để tựu trường thì da tôi đen nhẻm, tóc cháy nắng vàng khè ( khỏi cần nhuộm ) nhưng bù lại, tôi rất khỏe mạnh và có cả khối chuyện để kể cho bạn bè nghe.
Còn nếu không về quê được, thì ở lại thị xã tôi cũng có những ngày hè thú vị! Này nhé, cứ sắm vài cây cần câu nho nhỏ, một cái thùng thiếc nhỏ là có đồ nghề đi câu cá rô rồi! Dạo ấy, trên đường Lý Thường Kiệt phường 5
( khu Sao mai bây giờ ) có những mảnh ruộng, những con mương nước chảy nổi tiếng là nhiều cá rô, cứ ra chợ Vòng nhỏ mua vài cắc tép bạc làm mồi, móc vào lưỡi câu thả xuống ruộng thì tha hồ mà giật,cá rô nhiều vô kể! Có ngày tôi chỉ đi câu khoảng vài tiếng đồng hồ là xách về vài ký lô cá rô, tha hồ cho má tôi chiên dầm nước mắm gừng hoặc kho tộ! Thỉnh thoảng xuống giếng nước lớn ( lúc ấy rộng tới lề đường Lý Thường Kiệt ) để câu tôm, tôm ở đây cũng nhiều, con nào cũng mập. Chịu khó ngồi chơi chừng vài tiếng cũng được cả ký lô! Hồi ấy, ở thị xã Mỹ Tho nhà cao tầng đâu có nhiều như bây giờ! Cột điện lại ít hơn nên cái thú thả diều ở nội thị cũng chiếm gần hết chương trình nghỉ hè của bọn tôi. Rồi thì bắn cu-li ( bắn bi ), đánh trõng, chơi banh lỗ, tạt bao thuốc…thôi thì đủ món ăn chơi cho mùa hè! Chơi thì chơi vậy đó, nhưng hễ gần đến ngày tựu trường là phải nghỉ chơi, lo bao bìa, dán nhãn tập, vở mới chuẩn bị cho ngày khai trường của niên khóa mới.
Bây giờ, khi lập gia đình, có con…thấy con tôi, với đám bạn bè trang lứa đi học từ cấp 1 lưng oằn xuống vì sách vở, đồ dùng học tập. Học thì chúi mũi, chúi mắt, những ngày hè còn phải đi “học thêm” tôi cảm thấy tội nghiệp cho các em và nghĩ mình cũng còn hạnh phúc chán so với lớp trẻ bây giờ. Chúng tôi cũng vẫn học đầy đủ các môn, vẫn thi tốt nghiệp ra trường đàng hoàng! Có đứa – trừ tôi ra - bây giờ là Tiến sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, hay là cán bộ cao cấp của nhiều cơ quan.
Nên chăng các Nhà nghiên cứu Giáo dục xem lại phương pháp giảng dạy và học tập, đành rằng biển học là vô bờ. Nhưng, hãy nghỉ đến mùa hè của các em ( dù rằng có em nghỉ hè phải đi …bán vé số…) Hãy để cho các em có những ngày hè thật vui, thật thoải mái, được thỏa sức chơi đùa ở quê nhà hay bất cứ đâu. Hãy để cho các em có dịp đi nghỉ hè ở vùng nông thôn, vùng núi, vùng biển của quê nhà. Để các em biết được đất nước Việt Nam này có biết bao nhiêu là cảnh đẹp. Để các em biết được rằng: Có giang sơn gấm vóc hôm nay là nhờ ai! Hơn là cứ học ở sách giáo khoa và du lịch hè bằng…tranh ảnh và ti vi.
Hoàng Đức
Miếng Giữa Làng
Từ ngày xưa cho tới bây giờ, mỗi khi muốn nhắc tới một cái gì đó nó có quan hệ tới danh dự, vinh quang, cho dù cái “danh dự” đó - nếu so ra còn kém xa những gì mình đã bỏ ra - Người ta thường dùng câu: “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”
Quay về xã hội Việt Nam thời văn hoá “luỹ tre làng”, những người có chút đỉnh tiền hay giàu “nứt đố, đổ vách”, thừa ăn, dư mặc rồi thì người ta đi tìm danh vọng. Mà ở nông thôn thì đâu có dám mơ ước hão huyền tới những “chức sắc” vai vế trên cấp huyện, cấp phủ. Vậy thì, người ta cứ lo chạy cho được cái phẩm hàm nho nhỏ cỡ “tiên chỉ”; “lý trưởng” gì cũng được, người giàu có sẵn sàng bỏ tiền ra mua cái chức danh ấy, dù nhỏ nhưng đủ để “ăn trên, ngồi trước” so với đám dân làng thấp cổ, bé miệng. Hãy đọc những trang sách viết về thời phong kiến hay nửa thuộc địa nửa phong kiến của xã hội ta lúc bấy giờ mà xem. Mỗi khi ở đình làng có tổ chức cúng “Thần Hoàng bổn cảnh” hay đám rước, kỳ yên gì cũng được, những người “có chức” thường được ngồi “một mình, một chiếu thảnh thơi ngồi” để dự tiệc. Cái chỗ ngồi “độc tôn” này chỉ dành riêng cho ông tiên chỉ, lý trưởng…là người có chức sắc mà thôi. Người được “một mình một chiếu” còn lại là…anh “mõ” làng! Khi có người đỗ đạt hay nhận chức vụ gì của làng người ta cũng bày tiệc ở đình làng, được nhận cái gì đó bất cứ - có khi chỉ là miếng…vải tây điều - giữa làng, đối với người được nhận cũng là cái vinh dự ghê gớm lắm lắm. Cho dù, nếu so ra thì cái tiền, cái của họ bỏ ra để nhận vinh dự ấy còn nhiều hơn gấp trăm lần.
Còn nhớ ngày xưa, khi đất nước mới hoà bình phường nào, xã nào cũng có một đến hai đội văn nghệ quần chúng. Mỗi lần nhận được thông báo tổ chức hội diễn thì tất cả các đội đều nhào vô, lăn lưng tập dượt với cái khí thế hừng hực. Diễn viên quần chúng tham gia tập dượt say mê, không hề đòi hỏi một tý gì gọi là quyền lợi cho bản thân mình. Các cấp lãnh đạo lúc bấy giờ cũng chỉ động viên bằng lời nói, bằng sự quan tâm sâu sát chứ đâu có bỏ ra đồng kinh phí nào. Ngân sách địa phương vốn đã eo hẹp làm gì dám bỏ tiền ra o bế đội văn nghệ của mình. Vậy mà anh chị em quần chúng đó vẫn say mê, nhiệt tình tập dượt tham dự hội diễn, khi mệt giỏi lắm cũng chỉ có thùng…trà đá để giải khát, vài bao thuốc lá “Vàm Cỏ”, “Hoa Mai” hay sang một chút thì “Sài Gòn giải phóng” để gọi là. Toàn bộ kinh phí tập dượt hay mua sắm đạo cụ, phục trang đều lấy tiền ở “tổng nha” (xin hiểu là lấy của nhà), hoặc có nhà “Mạnh Thường Quân” nào đó thương tình bỏ tiền tài trợ chút đỉnh vậy thôi. Ấy thế mà cũng đạt thành tích vang dội, cũng giành nhiều bằng khen, giấy khen của ban tổ chức hội diễn. Cái thời ấy sao mà nó khí thế quá vậy? Còn ngày nay, câu “miếng giữa làng” liệu có còn tồn tại hay đã mai một theo mồ ma các ông tiên chỉ, thứ chỉ? Xin thưa, vẫn còn đó thôi chứ có mất đi đâu. Cụ thể là trong những lần tổ chức thi đua, thi đấu các bộ môn thể thao, văn nghệ…thì người ta cũng sẵn sàng bỏ ra vài ba triệu hay nhiều hơn nữa để “o bế” cho “quân mình”, mong muốn sẽ đạt giải cao nhất trong các kỳ thi đó. Bây giờ đất nước đã giàu, người dân làm ăn cũng khấm khá hơn xưa nên cái việc bỏ ra tiền triệu để hy vọng giành được cái giấy khen cũng trở nên quan trọng. Đơn cử trong lần tổ chức hội diễn văn nghệ quần chúng cấp thành, thị, huyện, có nhiều đơn vị cấp phường xã dám bỏ ra hơn chục triệu để mời người biên đạo, dàn dựng, đạo diễn cho đơn vị mình, mong sao đạt giải nhất. Xem ra, nó cũng đâu có thua gì cái “miếng giữa làng” ngày xưa đâu nhỉ? Để đạt được cái “miếng giữa làng” ấy, người ta không tiếc bất cứ một cái gì. Cấp cơ sở đã vậy, nói chi đến những cuộc thi cấp quốc gia? Những lần tham dự hội diễn Ca, múa, nhạc hay sân khấu cải lương, kịch nói chuyên nghiệp các đơn vị cũng bỏ tiền ra không ít để rước “thầy, bà”, mua sắm phục trang, đạo cụ, cảnh trí để mong kiếm được nhiều huy chương vàng hơn các đội bạn! Sao mà cái “miếng giữa làng” nó lại quan trọng đến như thế nhỉ? Tại sao không xem hội diễn cấp toàn quốc là một sân chơi, là dịp để nghệ sĩ, ca sĩ, biên đạo của các đoàn có dịp gặp gỡ, hàn huyên tâm sự và trao đổi kinh nghiệm? Sau khi đạt giải nhất toàn đoàn với cơ man nào là huy chương các loại, liệu các đoàn ấy có về quê nhà tổ chức phục vụ nhân dân hay không? Hay là chỉ “chăm chăm năm năm một lần” giành được thứ hạng cao nhất với số huy chương nhiều vô thiên lủng rồi về…rã đám, chờ năm năm nữa …thi tiếp? Cục nghệ thuật biểu diễn liệu đã có theo sát hoạt động “nghệ thuật vị nhân sinh” của các đoàn chưa? Xin thưa nên lắm! Các vị hãy tổ chức thâm nhập thực tế vào một vài đoàn nghệ thuật ca, múa, nhạc hay cải lương nào đó mà xem tần suất biểu diễn phục vụ nhân dân một năm của họ như thế nào? Hiệu quả ra sao để lấy đó làm tiền đề khen thưởng hay cộng thêm điểm cho các đoàn trong những lần tham dự hội diễn. Chứ tham dự hội diễn chuyên nghiệp, đầu tư cho dữ, huy động, mời mọc toàn “ngôi sao” để giành thứ hạng cao với nhiều huy chương vàng, bạc rồi về “đắp chiếu” hoặc “đường ai nấy đi” thì xin thôi đi. “Nghệ thuật vị nghệ thuật” chỉ tổ tốn tiền của dân thôi!
Hoàng Đức