Bến Tre là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long có tổng diện tích tự nhiên 237.970 ha.
Tọa độ địa lý: từ 9°48' đến 10°20' vĩ độ Bắc và từ 105°57' đến 106°48' kinh độ Đông.
- Phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang.
- Phía Tây và phía Tây Nam giáp tỉnh Vĩnh Long.
- Phía Nam giáp tỉnh Trà Vinh.
- Phía Đông giáp biển Đông.
Địa giới hành chính gồm: 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 8 huyện và 157 xã, phường, thị trấn.
Đầu thế kỷ XVII, Bến Tre về cơ bản vẫn còn là một vùng đất hoang vu chưa được khai phá, khắp nơi rừng rậm, đầm lầy. Mãi đến những thập niên cuối thế kỷ XVIII, còn nhận xét rằng “Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở vào, toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm". Trên đất Bến Tre, việc khai khẩn ruộng vườn của cư dân tại chỗ - người Khmer - chỉ tập trung chủ yếu trên đất giồng đất cao như Sóc Sãi, Giồng Ông Giang, Giồng Nâu, ở cù lao Bảo; Giồng Văn, Giồng Võ, Đa Phước, An Thạnh, Ba Vát ở cù lao Minh. Vùng đất Bến Tre được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII, nhưng lưu dân người Việt đã đến đây từ trước đó khá lâu. Có thể coi đó là một đặc điểm chung ở nhiều vùng đất ở Nam Bộ.
Những lưu dân người Việt đến vùng đất Bến Tre trong những năm cuối thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII hầu hết là những người từ các tỉnh miền Trung. Họ gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nhưng đông đảo nhất vẫn là những người nông dân nghèo khổ lại phải gánh chịu nạn chiến tranh phong kiến liên miên giữa hai tập đoàn phong kiến họ Trịnh ở Đàng Ngoài và họ Nguyễn ở Đàng Trong.
Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, các thôn xã phát triển rộng khắp từ vùng ven biển đến phía thượng nguồn của hai cù lao. Từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, trong khoảng hai thế kỷ rưỡi - một thời gian lịch sử không dài lắm - mà bộ mặt vùng đất Bến Tre đã thay đổi hẳn. Từ một vùng đất hoang vu, xứ sở của rừng rậm, sình lầy, thú dữ, rắn rết, cá sấu… đã trở thành một vùng ruộng vườn tươi tốt. Đó là kết quả của bao mồ hôi, công sức, cả máu và nước mắt của những người lưu dân buổi đầu và các thế hệ con cháu tiếp theo sau của họ. Cho nên chính họ mới là người chủ lực thực sự đã kiến tạo nên vùng đất trù phú này.
Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược đầu tiên (1859-1895): từ những ngày đầu giặc pháp nổ súng xâm lược Nam Kỳ cho đến những năm cuối thế kỷ XIX, nhân dân Bến Tre đã liên tục cùng nhân dân các tỉnh tiến hành cuộc kháng chiến cứu nước, cứu nhà. Trong cuộc chiến đấu đối mặt với một kẻ thù xâm lược có ưu thế vượt hẳn về kỹ thuật và trang bị quân sự, nhân dân Bến Tre với truyền thống kiên cường bất khuất đã không nề hy sinh, tổn thất, quyết tâm kháng chiến, bất chấp thái độ đầu hàng, phản bội của triều đình nhà Nguyễn.
Đấu tranh chống thực dân Pháp, giành độc lập (1895-1945): Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền đã thành công nhanh chóng trong toàn tỉnh. Ngày 26/8/1945, Ủy ban cách mạng tỉnh Bến Tre làm lễ ra mắt đồng bào trong cuộc mít-tinh long trọng được tổ chức tại sân vận động thị xã. Cách mạng Tháng 8 thành công là bước nhảy vọt vĩ đại, đánh dấu một cuộc biến đổi cực kỳ to lớn, một cuộc đổi đời trong lịch sử dân tộc nói chung, lịch sử nhân dân Bến Tre nói riêng. Từ chỗ người nô lệ, nhân dân Bến Tre cũng như nhân dân cả nước đã trở thành người làm chủ đất nước, quê hương, làm chủ vận mệnh của mình. Vì vậy Cách mạng Tháng 8/1945 thực sự là ngày hội lớn của toàn thể nhân dân trong tỉnh. Và từ đây, nhân dân Bến Tre cùng nhân dân cả nước quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để gìn giữ nền độc lập vừa mới giành được.
Cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai (1945-1954): từ ngày 23/9/1954, nhân dân Bến Tre cùng với đồng bào cả nước tiến hành cuộc kháng chiến ròng rã 3.223 ngày đêm đầy gian khổ hy sinh, nhưng vô cùng anh dũng, tự hào.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1954-1975): 1960 cuộc khởi nghĩa Đồng Khởi dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thường vụ Tỉnh ủy, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra theo đúng kế hoạch dự định và giành thắng lợi tại 03 xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh, huyện Mỏ Cày. Từ chiều tối ngày 30/4/1975 đến sáng ngày 01/5/1975 toàn tỉnh Bến Tre được hoàn toàn giải phóng, trật tự trị an nhanh chóng được thiết lập. Thắng lợi cuối cùng của nhân dân Bến Tre đã góp phần cùng nhân dân cả nước quét sạch quân xâm lược Mỹ ra khỏi bờ cõi, đánh sập ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, đưa đất nước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập, tự do và thống nhất.
Tỉnh Bến Tre được chia thành 9 đơn vị hành chính gồm: thành phố Bến Tre và 8 huyện: Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại, Chợ Lách, Thạnh Phú, với 164 xã, phường và thị trấn. Ngày 02/9/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 34/NQ-CP về việc thành lập thành phố Bến Tre trực thuộc tỉnh Bến Tre, đây là động lực để thúc đẩy kinh tế của tỉnh khởi sắc trong thời gian không xa. Về tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trên 10%/năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2009 là 790 USD, chỉ số năng lực cạnh tranh năm 2010 đứng thứ 10/63 tỉnh, thành cả nước.
Dân cư và nguồn lao động: tỉnh Bến Tre có khoảng 1,255 triệu người với 64,5% dân số trong độ tuổi lao động. Bên cạnh đó, tỉnh có hai trường Cao đẳng và trên 60 cơ sở dạy nghề. Hàng năm tỉnh đã đào tạo và giới thiệu việc làm cho khoảng 30.000 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 36%. Bến Tre hiện có 31 trường trung học với 40.000 học sinh, trong đó có khoảng 12.000 học sinh trung học phổ thông tốt nghiệp hàng năm và khoảng 3.000 học sinh bước vào các trường Đại học, Cao đẳng.