Vũ khí đọc não và điều khiển não, điều khiển hành vi lén từ vệ tinh trong kinh doanh

Post date: May 23, 2016 4:23:34 PM

Ngày: 06/04/2009

Satellite Mind Control Weapon (Vũ khí đọc não và điều khiển não, điều khiển hành vi lén từ vệ tinh):

- Phát hiện trường của tần số điện từ (EMF) bên trong con người cho việc theo dõi

Đối tượng điện từ có thể bị phát hiện từ xa, do đó các đối tượng (cụ thể là con người) có thể bị theo dõi bất cứ nơi đâu chúng đến. Với trang thiết bị đặt biệt EMF NSA (EMF: Electromagnetic Frequencies:tần số điện từ; NSA: Nation Security Agent: Cơ quan An Ninh Quốc Gia) có thể đọc từ xa đối tượng. Những sóng của tần số này được mã hóa thành những trạng thái và suy nghĩ của con người. Não người có thể là một radio nhỏ có thể thu và phát sóng điện từ. Con người này hoàn toàn có thể theo dõi từ xa.Quân đội có thể liên lạc bất cứ cá nhân nào trong cả nước dựa trên mạng dò quét những tín hiệu trí tuệ EMF (Electromagnetic Frequencies:tần số điện từ) và máy tính của Quân đội kết nối và theo dõi người đó 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần. Quân đội lấy ra và theo dõi bất cứ ai trong nước.

- Quân đội sử dụng tần số điện từ trong não đã kích thích

Quân đội sử dụng tần số điện từ của não đã kích thích cho việc theo dõi thần kinh từ xa (RNM: Remote Neural Monitoring) và liên kết não điện tử (EBL: Electronic Brain Link). Tần số điện từ của não đã kích thích (EMF Brain Stimulation) đã phát triển từ chương trình MKUltra trong những năm đầu 1950, chương trình này bao gồm nghiên cứu luận lý thần kinh (tín hiệu não) sang bức xạ sóng điện từ (Radiation) và nghiên cứu điện từ sinh học và phát triển. Kết quả kỹ thuật bí mật này được phân loại tại Lưu trữ Cơ quan An ninh như “Trí tuệ sóng điện từ” định nghĩa là thông tin từ sóng điện từ phát ra không chủ ý trong môi trường, không bao gồm tính phóng xạ và nổ hạt nhân. Tín hiệu trí tuệ đã hiện thực và giữ bí mật kỹ thuật này trong cùng cách như các chương trình chiến tranh điện từ của chính phủ. Cơ quan An ninh theo dõi những thông tin này và giấu nghiên cứu khoa học này trước công chúng. Quân đội đã sở hữu thiết bị điện từ mà phân tích hoạt động điện từ trong con người từ xa. Máy tính Quân đội (có khả năng tổng hợp bản đồ não) có thể theo dõi tất cả các hoạt động điện từ trong não. Quân đội ghi lại và giải mã bản đồ não của mỗi cá nhân bao gồm tất cả mọi người (nghĩa là ghi và giải mã tất cả bản đồ não của mọi người) cho mục đích an ninh. Tần số điện từ của não đã được kích thích là một cách bí mật sử dụng bởi quân đội cho việc liên kết não đến máy tính (Brain-to-Computer Link). Cho mục đích theo dõi điện từ, hoạt động điện từ trong các phát biểu của trung tâm não được dịch sang những đối tượng lời nói của suy nghĩ. Kỹ thuật theo dõi thần kinh từ xa (RNM) có thể gửi những tín hiệu được mã hóa đến vỏ não âm thanh của não vì vậy cho phép âm thanh liên lạc trực tiếp đến não mà không thông qua lỗ tai. Quân đội sử dụng kỹ thuật này để mô phỏng âm thanh hoang tưởng đến đối tượng là đặc tính của bệnh tâm thần phân liệt. Không có bất kỳ sự liên lạc nào với đối tượng vật lý, RNM (kỹ thuật theo dõi thần kinh từ xa) phát họa hoạt động điện từ từ vỏ não hình ảnh của đối tượng mục tiêu và hiển thị những hình ảnh từ não đối tượng mục tiêu lên màn hình video. Quân đội nhìn thấy những gì mà đối tượng bị theo dõi đang nhìn. Trí nhớ thị giác của con người cũng bị theo dõi. RNM (kỹ thuật theo dõi thần kinh từ xa) gửi những hình ảnh trực tiếp đến vỏ não hình ảnh (thị giác) của nạn nhân bị theo dõi mà không thông qua mắt và dây thần kinh thị giác. Quân đội sử dụng kỹ thuật này bí mật đặt những hình ảnh lên não của nạn nhân bị theo dõi trong khi họ đang ở R.E.M sleep (Rapid Eyes Movement Sleep: là một giai đoạn bình thường của giấc ngủ) cho mục đích lập trình não.

- Khả năng điều khiển của Quân đội khi sử RNM (kỹ thuật theo dõi thần kinh từ xa)

Mạng lướt tín hiệu trí tuệ (Signals Intelligence Network) xuất hiện từ năm 1940. Quân đội ở một nơi chứa hệ thống lớn theo dõi thần kinh từ xa (RNM) không dây hai chiều mà được sử dụng theo dõi các nạn nhân và theo dõi thông tin âm thanh, thị giác của não các nạn nhân. Kỹ thuật này được sử dụng mà không cần liên hệ vật lý với nạn nhân. Kỹ thuật theo dõi thần kinh từ xa (RNM) là phương cách nền tảng của việc theo dõi. Âm thanh nói và âm thanh 3D, và siêu âm thanh được gửi đến vỏ não âm thanh của não nạn nhân (không thông qua tai) và những hình ảnh được gửi vào vỏ não hình ảnh (vỏ não thị giác). Kỹ thuật theo dõi thần kinh (RNM) có thể thay đổi nhận thức, tâm tính, hành động của nạn nhân. Liên kết vỏ não nói/ vỏ não âm thanh đã trở thành hệ thống giao tiếp nền tản cho giao tiếp trí tuệ. Kỹ thuật theo dõi thần kinh từ xa (RNM) cho phép liên kết hoàn toàn âm thanh-hình ảnh từ não đến não (brain-to-brain link) hoặc liên kết não đến máy tính (brain-to-computer link).

- Kỹ thuật liên kết não điện từ (EMF Brain Link)

Quân đội có thể dò tìm, xác định và theo dõi những điện từ sinh học của con người. Quân đội sở hữu khả năng để theo dõi từ xa thông tin trong não người bởi giải mã kỹ thuật số những điện thế trong sóng điện từ tần số 30-50 Hz, 0.5 milliwatt phát ra từ não. Hoạt động thần kinh trong não tạo ra mô hình chuyển điện mà có sự thay đổi chuyển dịch từ trường. Sự thay đổi từ trường này phát ra một sóng điện từ (EMF: electromagnetic frenqencies) tần không đổi từ 30-50 Hz, 0.5 milliwatt. Điện từ phát ra từ não nạn nhân gọi là evoked potentials (điện thế phát ra). Mỗi suy nghĩ, phản ứng, yêu câu hành vi, sự kiện âm thanh, và hình ảnh thị giác trong não có một điện thế phát ra tương ứng hay bộ các điện thế phát ra. EMF (sóng điện từ) phát ra từ não được giải mã thành những suy nghĩ, hình ảnh, âm thanh hiện tại của não nạn nhân.Quân đội sử dụng EMF-transmitted Brain Stimulation (hệ thống kích sóng điện từ phát ra từ não) như là một hệ thống liên lạc thông tin để chuyển tải thông tin (cũng như là thông điệp từ hệ thống thần kinh) đến cơ quan an ninh và ngược lại là chuyển tải thông tin đến não nạn nhân. EMF-transmitted Brain Stimulation (hệ thống kích sóng điện từ phát ra từ não) hoạt động bằng cách gửi tín hiệu điện từ được mã hóa phức tạp và xung hóa đến bộ phận thu điện thế trong não, vì vậy hình thành âm thanh và hình ảnh thị giác trong những mạch điện thần kinh của não. Hệ thống kích sóng điện từ phát ra từ não thay đổi trí não và tác động hành vi nạn nhân. Liên kết não điện tử hai chiều (Two-way Electronic Brain Link) được thực hiện bằng cách theo dõi từ xa thông tin thần kinh nghe nhìn trong khi vẫn truyền âm thanh đến võ não âm thanh (không thông qua tai) và truyền những hình ảnh đến vỏ não hình ảnh (không qua thần kinh thị giác và mắt, những hình ảnh xuất hiện như cảnh 2 chiều (2-D) di động trong não. Liên kết não điện tử hai chiều (Two-way Electronic Brain Link) đã trở thành hệ thống liên lạc thông tin nền tảng cho Quân đội. RNM (hệ thống theo dõi từ xa thông tin sinh học điện từ trong não người) đã trở thành hệ thống theo dõi nền tảng. Nó được một số cơ quan sử dụng trong cộng đồng. RNM đòi hỏi giải mã tần số cộng hưởng của từng vùng trong não. Tần số này sau đó được điều chỉnh (modulated) để giả thông tin trong vùng não đó. Tần số của mỗi vùng não khác nhau đáp ứng tần số khác nhau từ 3Hz đến 50 Hz. Chỉ có Quân đội điều chỉnh những tín hiệu trong dãi băng tần số này.

Ví dụ của hệ thống kích tần số điện từ của não (EMF Brain Stimulation):

Thông tin được điều chỉnh này được đưa vào não tại cường độ khác nhau từ tiềm thức đến nhận thức. Mỗi não người có tập duy nhất các tần số cộng hưởng sinh học điện từ. Gửi thông tin âm thanh đến não người này tại tần số của vỏ não âm thanh người khác thì kết quả âm thanh đó không được nhận.

Vũ khí âm thanh đến não V2K (voice to skull) trong Mind Control

V2K mô tả “âm thanh đến não” hay còn gọi hệ thống nghe từ xa. Nạn nhân có thể nghe âm thanh trực tiếp trong não mà không thông qua tai. Sóng siêu âm (ultrasound) và sóng ngắn (microwave) được sử dụng cho việc nghe từ xa. Các ưu điểm cho Quân đội và những kẻ theo dõi dấu mặt (gang stalkers) sử dụng vũ khí V2K cho việc tra tấn và quấy rối:

1.V2K sẽ không để lại bằng chứng sau khi tra tấn và quấy rối.

2.V2K sẽ bắt chước triệu chứng của vấn đề tâm thần. Nghĩa là làm cho nạn nhân bị tâm thần.

3.V2K có thể thôi miên hoặc tạo giấc ngủ nhân tạo và khiến nạn nhân làm một số thứ mà họ muốn.

a)Tiếp tục tra tấn/ quấy rối khi không có người nào nói bóng gió bên cạnh nạn nhân:

Quân đội và những kẻ theo dõi giấu mặt (gang stalkers) thường xuyên phát ra những thứ nói bóng gió đến nạn nhân của họ gây ra xúc cảm. Khi không có người xung quanh nói chuyện, kỹ thuật này có thể khiến cho nạn nhân nghe những lời bóng gió xung quanh. Trong trường hợp này, những tiếng nói là hăm dọa đến nạn nhân.

b)Những thao tác của nhận thức của nạn nhân:

Nạn nhân không chỉ nghe những giọng nói mà còn những tiếng ồn. Ví dụ: nạn nhân có lẽ nghe tiếng còi hú mà không có xe cứu thương nào xunh quanh. Những tai nạn có thể khiến nạn nhân cảm giác hoảng sợ nếu nạn nhân không biết rằng những kỹ thuật này là của Quân đội.

c)Những thứ siêu nhiên xấu xa:

Nạn nhân có lẽ ngạc nhiên khi nghe giọng nói mà không có ai bên cạnh. Thiết bị âm thanh tầm xa (LRAD: Long Range Acoustic Device) có một cái tên khác là vũ khí giọng nói của thượng đế (Voice of God Weapon). Nạn nhân có lẽ làm một số thứ nhất định bởi việc tin theo giọng nói của thượng đế. Những người khác có nghe giọng nói của thượng đế hoặc thứ siêu nhiên để hành động chống lại nạn nhân.

d)Khiến nạn nhân vào chỗ chán nãn

Bởi phát ra những vấn đề tiêu cực trong thời gian dài, giọng nói có thể khiến nạn nhân bị chán nãn. Sự chán nãn là một kiểu của vấn đề tâm lý và nạn có thể có kinh nghiệm trong các vấnđề tâm lý khác từ chuyện này.

e)Tước đoạt giấc ngủ vì nghe giọng nói và tiếng ồn liên tục

Họ có lẽ sử dụng tiếng ồn tần số cao thay cho việc nói đến nạn nhân. Họ thường xuyên sử dụng tiếng ồn có tần số trên 13,000Hz. Thiếu ngủ là để sử dụng cho mụch đích đọc não, điều khiển não và điều khiển hành vi (mind control).

f)Thôi miên nạn nhân cho điều khiển não và hành vi (mind control)

Những giọng nói của họ được chuyển đổi sang tiếng ồn tầng số 13,000Hz đến 16,000Hz, vì vậy nạn nhân có thể không nghe yêu cầu thật sự. Nhưng não các nạn nhân hiểu yêu cầu trong một giọng tần số cao cụ thể. Nạn nhân có thể nghe tiếng ồn giống như thoáng qua của giọng nói được nén.

g)Thao tác của cuộc đối thoại

Nạn nhân có lẽ nghe những giọng nói có người xung quanh. Bằng V2K, nạn nhân có lẽ không hiểu những gì mọi người đang nói. Trường hợp ngược lại cũng xãy ra; mọi người có lẽ nghe những giọng nói trong khi đối tượng ở một nơi. Điều này khiến cho xung đột giữa những người trong tổ chức. Truyền một tin đồn về nạn nhân được làm theo cách này.

Sử dụng tại sân bay: