Ngày nay, ngành xây dựng nước ta đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nguồn cung cát tự nhiên. Mỗi năm nhu cầu cát xây dựng cần khoảng 120 triệu m³, lượng cát khai thác được là 28,985 triệu m³/năm, chỉ đáp ứng được 24,2% (Vụ VLXD Tổng hợp, Bộ XD, 2017). Từ 2017, Campuchia cấm xuất khẩu cát, dẫn đến thiếu hụt nguồn cung cát tự nhiên cho các tỉnh Nam Bộ. Trong khi đó, Việt Nam đang dư thừa xỉ lò cao tại các nhà máy gang thép, là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường phế thải công nghiệp. Cả nước có trên 300 doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất gang thép (chiếm 30% sản lượng) chưa đầu tư hệ thống xử lý chất thải nên hầu hết đều gây ô nhiễm môi trường (Hiệp hội Thép VN, 2018). Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu ứng dụng và thương mại hóa xỉ lò cao làm vật liệu thay thế cát tự nhiên là yêu cầu rất cấp thiết.
Sản phẩm Cát nhân tạo được sản xuất từ xỉ nhà máy nhiệt điện được SUP nghiên cứu, chế tạo với tính ứng dụng cao. Trên thực tế, sản phẩm có giá thành rẻ hơn 20% và nhẹ hơn 10% so với cát tự nhiên
Nhóm nghiên cứu đã xác định được 3 điểm yếu của xỉ lò cao là cường độ thấp, tính nở và hạt góc cạnh. Từ đó, nhóm đưa ra 3 sáng kiến công nghệ: (1) thay thế một phần (tăng cường độ, hạn chế nở, giảm góc cạnh hạt),(2) quy trình dưỡng ẩm (giảm pH, giảm tính nở), (3) sử dụng phụ gia (giảm nước trộn, tăng kết dính).
Với quy trình công nghệ mà nhóm nghiên cứu, sản phẩm Cát nhân tạo đã góp phần tích cực vào chống biến đổi khí hậu và nóng lên toàn cầu.
Các vấn đề về kỹ thuật và kiểm định đã được tiến hành bởi các chuyên gia nước ngoài và cho kết quả khả quan.
Bảng đánh giá tác động môi trường.