Rắn cạp nia Mã Lai[2][3] hay cạp nia miền nam, rắn hổ khoang, rắn vòng bạc (danh pháp hai phần: Bungarus candidus) là một loài rắn cạp nia thuộc họ Rắn hổ. Loài này được mô tả năm 1758 bởi Linnaeus. Loài này phân bố ở Campuchia, Indonesia (Java, Sumatra, Bali, Sulawesi), Malaysia (Malaya), Singapore, Thái Lan, Việt Nam.
Năm 1831, Phân loại đầu tiên mô tả rắn hổ đất như 1 loài rắn đẹp với điểm khác biệt rắn hổ mang đeo kính, có 188 vảy bụng và 53 cặp vảy đuôi.[3]
Kể từ đó, một số rắn hổ đất được mô tả dưới những tên khoa học khác nhau:
Năm 1834, John Edward Gray đã xuất bản mô tả đầu tiên của Thomas Hardwicke's về rắn hổ đất dưới tên Naja tripudians var. fasciata.[4]
Năm 1839, Thomas Cantor đã mô tả một con rắn hổ với các sọc vàng mờ và một vòng tròn trắng ở lưng dưới tên Naja larvata, được tìm thấy ở Bombay, Calcutta và Assam.[5]
Năm 1940, Malcolm Arthur Smith đã phân loại rắn hổ đất như là 1 phân loài của rắn hổ mang đeo kính dưới tên Naja naja kaouthia.[6]
Naja kaouthia kaouthia – Deraniyagala, 1960
Rắn hổ đất phân bố từ Ấn Độ ở phía tây cho đến Trung Quốc, Việt Nam và Campuchia. Nó cũng hiện diện ở bán đảo Mã Lai và có nguồn gốc từ Bangladesh, Bhutan, Myanmar, Lào, Nepal và Thái Lan.