NAM MÔ NHƯ LAI TẠNG PHẬT TÍNH
NGUYỆN ĐỜI ĐỜI KIẾP KIẾP KHÔNG CÙNG TẬN
QUY Y PHẬT, QUY Y PHÁP, QUY Y TĂNG !
Đệ tử hỏi: Bạch Sư phụ, con nghe sư phụ thuyết giới vào lúc giữa tháng hay cuối tháng và thường bảo con "siêng học Kinh Luật Luận kính giữ đừng có buông lung", nhưng khi con học Kinh Luật Luận lại có Thầy nói con là đi "chân không chạm đất", con không hiểu xin Sư phụ giảng dạy cho con hiểu.
Sư phụ nói: Sao lại có Thầy nào lại đi nói như vậy bao giờ? Trừ khi Thầy đó chưa từng nghe thuyết giới hay đọc giới. Ngay cả cư sĩ thọ 5 giới còn phải "siêng học Kinh Luật Luận kính giữ đừng có buông lung" nữa cơ mà, huống hồ là một Sa di ni đã thọ 10 giới như con mà không học thì biết gì để tu !
Đệ tử nói: Bởi vậy con mới thắc mắc hỏi Sư phụ !
Sư phụ nói: Thầy nào nói như vậy là không hiểu rồi, bởi vì khi con mới phát tâm xuất gia chưa biết chi mô mà Thầy Bổn sư của con đã bắt con là phải học, phải đọc tụng Kinh (chú) Lăng Nghiêm rồi ! Kinh (chú) Lăng Nghiêm đối với con lúc đó không phải là khó hiểu khó nuốt lắm hay sao ? Sư phụ thấy nếu theo ý của Thầy nào đó nói như vậy thì con đã "chân đi không chạm đất" từ lúc chưa cạo tóc rồi !
Bài Kệ TÍN TÂM MINH (Tam Tổ TĂNG XÁN)
TRÚC THIÊN dịch
Chí đạo vô nan
duy hiềm giản trạch
Đản mạc tắng ái
đỗng nhiên minh bạch
Đạo lớn chẳng gì khó
cốt đừng chọn lựa thôi
Quý hồ không thương ghét
thì tự nhiên sáng ngời
Hào ly hữu sai
thiên địa huyền cách
Dục đắc hiện tiền
mạc tồn thuận nghịch
Sai lạc nửa đường tơ
đất trời liền phân cách
Chớ nghĩ chuyện ngược xuôi
Đạo hiện liền trước mắt
Vi thuận tương tranh
thị vi tâm bệnh
Bất thức huyền chỉ
đồ lao niệm tịnh
Đem thuận nghịch chọi nhau
đấy chính là tâm bịnh
Không nắm được mối đầu
hoài công lo niệm tịnh
Viên đồng thái hư
vô khiếm vô dư
Lương do thủ xả
sở dĩ bất như
Tròn đầy tựa thái hư
không thiếu cũng chẳng dư
Bởi mảng lo giữ bỏ
nên Đạo chẳng được Như
Mạc trục hữu duyên
vật trụ không nhẫn
Nhứt chủng bình hoài
dẫn nhiên tự tận
Ngoài chớ đuổi duyên trần
trong đừng ghì không nhẫn
Cứ một mực bình tâm
thì tự nhiên dứt tận
Chỉ động qui chỉ
chỉ cánh di động
Duy trệ lưỡng biên
ninh tri nhứt chủng
Ngăn động mà cầu tịnh
hết ngăn lại động thêm
Càng trệ ở hai bên
Sao bằng do đầu mối
Nhứt chủng bất thông
lưỡng xứ thất công
Khiển hữu một hữu
tòng không bối không
Đầu mối chẳng rõ thông
hai đầu luống uổng công
Đuổi có liền mất có
theo không lại trái không
Đa ngôn đa lự
chuyển bất tương ưng
Tuyệt ngôn tuyệt lự
vô xứ bất thông
Lắm lời thêm lo nghĩ
loanh quanh mãi chẳng xong
Dứt lời bặt lo quẩn
đâu đâu chẳng suốt thông
Qui căn đắc chỉ
tùy chiếu thất tông
Tu du phản chiếu
thắng khước tiền không
Trở về nguồn nắm mối
dõi theo ngọn mất tông
Phút giây bừng phản chiếu
trước mắt vượt cảnh không
Tiền không chuyển biến
giai do vọng kiến
Bất dụng cầu chơn
duy tu tức kiến
Cảnh không trường thiên diễn
thảy đều do vọng kiến
Cứ gì phải cầu chơn
chỉ cần dứt sở kiến
Nhị kiến bất trụ
thận mạc truy tầm
Tài hữu thị phi
phân nhiên thất tâm
Hai bên đừng trụ kiến
cẩn thận chớ kiếm tầm
Phải trái vừa nghĩ đến
là nghiền đốt mất tâm
Nhị do nhứt hữu
nhứt diệc mạc thủ
Nhứt tâm bất sanh
vạn pháp vô cữu
Hai do một mà có
một rồi cũng buông bỏ
Mảy tâm ví chẳng sanh
Pháp nào ngăn ngại chứ ?
Vô cữu vô pháp
bất sanh bất tâm
Năng tùy cảnh diệt
cảnh trục năng trầm
Chẳng ngại thì không pháp
không sanh ắt chẳng tâm
Tâm theo cảnh mà bặt
cảnh theo tâm mà chìm
Cảnh do năng cảnh
năng do cảnh năng
Dục tri lưỡng đoạn
nguyên thị nhứt không
Tâm là tâm của cảnh
cảnh là cảnh của tâm
Nên biết hai đàng dứt
rốt cùng, chỉ một không
Nhứt không đồng lưỡng
tề hàm vạn tượng
Bất kiến tinh thô
ninh hữu thiên đảng
Một không, hai mà một
bao gồm hết muôn sai
Chẳng thấy trong thấy đục
lấy gì mà phân hai
Đại đạo thể khoan
vô dị vô nan
Tiểu kiến hồ nghi
chuyển cấp chuyển trì
Đạo lớn vốn khoan dung
không dễ mà chẳng khó
Kẻ tiểu kiến lừng khừng
gấp theo và chậm bỏ
Chấp chi thất độ
tất nhập tà lộ
Phóng chi tự nhiên
thể vô khứ trụ
Chấp giữ là nghiêng lệch
dấn thân vào nẻo tà
Cứ tự nhiên buông hết
bổn thể chẳng lại qua
Nhậm tánh hợp Đạo
tiêu dao tuyệt não
Hệ niệm quai chơn
hôn trầm bất hảo
Thuận tánh là hiệp Đạo
tiêu dao dứt phiền não
Càng nghĩ càng trói thêm
lẽ Đạo chìm mê ảo
Bất hảo lao thần
hà dụng sơ thân
Dục thủ nhứt thặng
vật ố lục trần
Mê ảo nhọc tinh thần
tính gì việc sơ thân
Muốn thẳng đường nhứt thặng
đừng chán ghét sáu trần
Lục trần bất ác
hoàn đồng chánh giác
Trí giả vô vi
ngu nhơn tự phược
Sáu trần há xấu chi?
vẫn chung về giác đấy
Bậc trí giữ vô vi
người ngu tự buộc lấy
Pháp vô dị pháp
vọng tự ái trước
Tương tâm dụng tâm
khởi phi đại thác
Pháp pháp không khác pháp
do ái trước sanh lầm
Há chẳng là nhầm lắm
đem tâm mà khiến tâm
Mê sanh tịch loạn
ngộ vô hảo ác
Nhứt thiết nhị biên
lương do châm chước
MÊ, bỏ vọng, cầu yên
NGỘ, bặt điều ưa ghét
Nhứt thiết việc hai bên
đều do vọng châm chước
Mộng huyễn hư hoa
hà lao bả tróc
Đắc thất thị phi
nhứt thời phóng khước
Mộng như hoa giữa trời
khéo nhọc lòng đuổi bắt
Chuyện thua được thị phi
một lần buông bỏ quách
Nhãn nhược bất thụy
chư mộng tự trừ
Tâm nhược bất dị
vạn pháp Nhứt Như
Mắt ví không mê ngủ
mộng mộng đều tự trừ
Tâm tâm ví chẳng khác
thì muôn Pháp Nhất Như
Nhứt như thể huyền
ngột nhĩ vong duyên
Vạn pháp tề quán
quy phục tự nhiên
Nhất như vốn thể Huyền
bằn bặt không mảy duyên
Cần quán chung như vậy
muôn pháp về tự nhiên
Dẫn kì sở dĩ
bất khả phương tỷ
Chỉ động vô động
động chỉ vô chỉ
Đừng hỏi „vì sao“ cả
thì hết chuyện sai ngoa
Ngăn ĐỘNG chưa là TỊNH
động ngăn, khác tịnh xa
Lưỡng ký bất thành
nhứt hà hữu nhĩ
Cái hai mà chẳng được
cái một lấy chi mà...
Cứu cánh cùng cực
bất tồn quỹ tắc
Khế tâm bình đẳng
sở tác câu tức
Rốt ráo đến cùng cực
chẳng còn mảy quy tắc
Bình Đẳng hiệp đạo tâm
im bặt niềm tạo tác
Hồ nghi tận tịnh
chánh tín điều trực
Nhứt thiết bất lưu
vô khả ký ức
Niềm nghi hoặc lắng dứt
lòng tin hòa lẽ trực
Một vật cũng chẳng lưu
lấy gì mà ký ức
Hư minh tự chiếu
bất lao tâm lực
Phi tư lượng xứ
thức tình nan trắc
Bổn thể vốn hư minh
tự nhiên nào nhọc sức
Trí nào suy lượng được
thức nào cần nhắc ra
Chơn như pháp giới
vô tha vô tự
Yếu cấp tương ưng
duy ngôn bất nhị
Cảnh chơn như pháp giới
không người cũng chẳng ta
Muốn nói chẳng nên lời
chỉ thưa rằng „chẳng hai“
Bất nhị giai đồng
vô bất bao dong
Thập phương trí giả
giai nhập thử tông
Chẳng hai mà hòa một
Bao gồm hết muôn sai
Mười phương hàng trí giả
đều về hết tông này
Tông phi xúc diên
nhứt niệm vạn niên
Vô tại bất tại
thập phương mục tiền
Tông này vốn tự tại
khoảnh khắc là vạn niên
Dầu CÓ - KHÔNG, KHÔNG - CÓ
mười phương trước mắt liền
Cực tiểu đồng đại
vong tuyệt cảnh giới
Cực đại đồng tiểu
bất kiến biên biểu
Cực nhỏ là cực lớn
đồng nhau, bặt cảnh duyên
Cực lớn là cực nhỏ
đồng nhau, chẳng giới biên
Hữu tức thị vô
vô tức thị hữu
Nhược bất như thử
tất bất tu thủ
Cái CÓ là cái KHÔNG
cái KHÔNG là cái CÓ
Ví chưa được vậy chăng
quyết đừng nên nấn ná
Nhứt tức nhứt thiết
nhứt thiết tức nhứt
Đản năng như thị
hà tự bất tất
Một tức là Tất Cả
Tất Cả tức là Một
Quý hồ được vậy thôi
lo gì chẳng viên tất
Tín Tâm bất nhị
bất nhị Tín Tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn
phi khứ lai kim.
Tín Tâm chẳng phải hai
chẳng phải hai Tín Tâm
Lời nói làm đạo dứt
chẳng kim cổ vị lai.
TAM TỔ TĂNG XÁN
TRÚC THIÊN dịch
Hai Mươi Lăm Cõi Giới - Nhị Thập Ngũ Hữu (二十五有)
25 cõi này còn trong Tam giới.
四洲四惡趣,
六欲並梵天;
四禪四空處,
無想五不還。
Tứ châu, Tứ ác thú
Lục dục, Tịnh phạm thiên
Tứ thiền, Tứ không xứ
Vô tưởng, Ngũ bất hoàn
Có sinh ắt có tử, có nhân ắt có quả, nhân quả không bao giờ diệt mất, cho nên nói là “hữu”. Thế gian, một cách tổng quát, được chia làm 3 cõi (tam giới: Dục giới, Sắc giới và Vô-sắc giới); chi tiết hơn thì chia làm 6 đường (lục đạo: Thiên, Nhân, A-tu-la, Bàng-sinh, Ngạ-quỉ, và Địa-ngục); và chi tiết hơn nữa thì chia làm 25 cõi (nhị thập ngũ hữu). 25 cõi này được kể trong 5 nhóm sau đây:
A) 4 cõi ác (tứ ác thú):
Địa-ngục
Ngạ-quỉ
Bàng-sinh
A-tu-la
B) 4 châu của loài người (tứ châu thiên hạ):
Đông Thắng-thân châu
Nam Thiệm-bộ châu
Tây Ngưu-hóa châu
Bắc Câu-lô châu
C) 6 cõi trời Dục giới (lục Dục thiên):
Tứ-vương thiên
Đao-lợi thiên
Dạ-ma thiên
Đâu-suất thiên
Hóa-lạc thiên
Tha-hóa-tự-tại thiên
D) 7 cõi trời Sắc (Sắc giới):
Sơ-thiền thiên
Đại-phạm thiên
Nhị-thiền thiên
Tam-thiền thiên
Tứ-thiền thiên
Vô-tưởng thiên
Tịnh-cư A-na-hàm thiên
E) 4 cõi trời Vô-sắc (Vô-sắc giới):
Không-xứ thiên
Thức-xứ thiên
Vô-sở-hữu-xứ thiên
Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiên
Ghi chú: Trong cõi Sắc giới, 4 tầng trời Sơ-thiền, Nhị-thiền, Tam-thiền, và Tứ-thiền, mỗi tầng được kể là 1 cõi (1 hữu); trong đó, đặc biệt:
a) Đại-phạm thiên được tách riêng ra từ tầng trời Sơ-thiền để được kể là 1 cõi (1 hữu), vì trời Phạm Thiên là chủ tể của cả ba ngàn đại thiên thế giới.
b) Vô-tưởng thiên được tách riêng ra từ tầng trời Tứ-thiền để được kể là 1 cõi (1 hữu), vì đó là nơi đặc biệt, chúng sinh không còn có tư tưởng.
c) 5 cõi trời Vô-phiền thiên, Vô-nhiệt thiên, Thiện-kiến thiên, Thiện-hiện thiên, và Sắc-cứu-cánh thiên, được tách riêng ra từ tầng trời Tứ-thiền, kết hợp thành một nhóm gọi là Ngũ Tịnh-cư thiên, hay Ngũ Na-hàm thiên, để được kể là 1 cõi (1 hữu), vì đó đều là nơi cư trú của chư vị đã chứng quả A-na-hàm (tức quả Bất-hoàn, quả vị thứ ba của 4 thánh quả Thanh-văn).
Do đó mà Sắc giới được kể có 7 hữu.