ENIAC được hoàn thành vào năm 1945 và lần đầu tiên được đưa vào hoạt động cho các mục đích thực tế vào ngày 10 tháng 12 năm 1945. ENIAC chính thức được đặt tại Đại học Pennsylvania vào ngày 15 tháng 2 năm 1946 và được báo chí gọi là "Bộ não khổng lồ".
CÁC THỜI KÌ PHÁT TRIỂN CỦA MÁY VI TÍNH?
Năm 1964, Douglas Engelbart đã cho ra mắt bản thử nghiệm của máy tính hiện đại, với chuột và giao diện đồ hoạ người dùng. Phát minh này đánh dấu cột mốc máy tính giờ đây đã phù hợp cho đại chúng thay vì chỉ dành cho các chuyên gia, nhà khoa học hay nhà toán học như trước đây.
Năm 1969, một nhóm nhà phát triển tại Bell Labs đã viết nên UNIX, một hệ điều hành giải quyết vấn đề tương thích. Lập trình bởi ngôn ngữ C và thích hợp đa nền tảng. Bởi khả năng tương thích này, UNIX đã trở thành hệ điều hành được lựa chọn tại nhiều công ty lớn và các tổ chức chính phủ. Tuy nhiên, do xử lý chậm nên UNIX không thu hút được người dùng PC tại nhà.
Năm 1970, công ty Intel lúc này vừa thành lập được 2 năm đã công bố Intel 1103, bộ nhớ xử lý ngẫu nhiên động (DRAM) đầu tiên.
Năm 1971, Alan Shugart dẫn đầu đoàn kỹ sư tại IBM, đã sáng chế ra đĩa mềm, cho phép chia sẻ dữ liệu giữa các máy tính.
Năm 1973, Robert Metcalfe, nhân viên nghiên cứu tại Xerox, đã sáng tạo ra chuẩn Ethernet để kết nối nhiều máy tính và phần cứng với nhau.
Năm 1974-1977, các hãng bắt đầu tung ra các dòng máy tính cá nhân ra thị trường, các model nổi bật bao gồm: Scelbi & Mark-8 Altair, IBM 5100, Radio Shack TRS-80 (Trash 80) và PEToreore.
Năm 1975, Tạp chí Popular Electronics vào số tháng một đã giới thiệu máy tính Altair 8080 dưới biệt danh “máy tính mini đầu tiên trên thế giới”. Hai người “mọt máy tính” là Paul Allen và Bill Gates đã đề nghị được viết phần mềm cho Altair bằng ngôn ngữ lập trình BASIC. Vào ngày 4 tháng 4, với sự thành Paul Allen và Bill Gates đã thành lập nên công ty phần mềm Microsoft.
Năm 1976, Steve Jobs và Steve Wozniak đã bắt đầu Apple Computers vào ngày cá tháng tư 1/4 và cho ra mắt máy tính Apple I, máy tính đầu tiên chạy trên một bo mạch chủ.
Năm 1977, Radio Shack sản xuất 3,000 máy tính TRS-80 cho đợt đầu tiên và bán đắt như tôm tươi. TRS-80 là sản phẩm hướng tới đối tượng người dùng không chuyên, lần đầu tiên tập khách hàng này có thể điều chỉnh phần mềm để máy tính phục vụ theo nhu cầu.
Năm 1977, Steve Jobs và Steve Wozniak thành lập Apple và giới thiệu máy tính Apple II tại triển lãm máy tính West Coast đầu tiên. Apple II mang tới trải nghiệm đồ hoạ màu sắc và tích hợp ổ cắm băng cát-xét.
Năm 1978, VisiCalc, chương trình bảng tính dành cho máy tính đầu tiên xuất hiện.
Năm 1985, Microsoft cho ra mắt Windows. Là đòn đáp trả cho giao diện đồ hoạ người dùng (GUI) của Apple. Commodore sau đó cho ra mắt máy tính Amiga 1000 có hỗ trợ khả năng xuất âm thanh cao cấp và xử lý video.
Năm 1985, tên miền .com đầu tiên được đăng ký vào ngày 15 tháng 3, trước sự xuất hiện của World Wide Web hay www- khởi đầu của kỷ nguyên internet hàng năm trời. Công ty The Symbolics Computer, một nhà sản xuất máy tính, đã đăng ký tên miền đầu tiên Symbolics.com. Hai năm sau, chỉ 100 tên miền .com được đăng ký.
Năm 1986, Compaq đưa Deskpro 386 ra thị trường. Cấu trúc 32-bit, cung cấp khả năng xử lý tương đương các máy tính cỡ lớn.
Năm 1996, Segrey Bin và Larry Page phát triển công cụ tìm kiếm Google tại đại học Stanford, Mỹ.
Năm 1997, Microsoft đầu tư 150 triệu đô vào Apple. Lúc này Apple đang phải chịu khủng hoảng nghiêm trọng, việc đầu tư cũng đã kết thúc vụ kiện của Apple đối với Microsoft cho rằng Microsoft đã sao chép “giao diện và cảm giác’’ của hệ điều hành thuộc Apple.
Năm 1999, Wi-Fi trở thành một phần của ngôn ngữ máy tính và người dùng bắt đầu sử dụng Wi-Fi để kết nối Internet không dây.
Năm 2001, Apple giới thiệu Mac OS X, hệ điều hành của với cấu trúc mã nguồn đóng và ưu tiên cho việc đa nhiệm bên cạnh những tính năng có lợi khác. Không thua kém, Microsoft cho ra Windows XP, phiên bản hệ điều hành với giao diện người dùng được tái thiết kế mạnh mẽ.
Năm 2003, vi xử lý 64-bit đầu tiên- AMD Athlon 64 đã ra mắt thị trường.
Năm 2005, Youtube, nền tảng chia sẻ video được thành lập. Cùng lúc đó Google đã mua lại Android, hệ điều hành nhân Linux dành cho điện thoại di động.
Năm 2009, Microsoft tung ra Windows 7, cho phép ghim các ứng dụng vào thanh taskbar và nâng cao hỗ trợ khả năng cảm ứng, nhận diện viết tay cùng những tính năng mới khác.
Năm 2016, máy tính lượng tử có khả năng lập trình và tái lập trình đầu tiên được tạo ra. Trước đây chưa có nền tảng tính toán lượng tử nào có khả năng lập trình một thuật toán mới vào trong chính hệ thống của nó.
Năm 2017, cơ quan DARPA, đang phát triển chương trình “Tin học phân tử” mới, sử dụng các phân tử làm máy tính. “Hoá học chứa những thuộc tính có thể khai thác cho việc lưu trữ và xử lý thông tin nhanh và bao quát” trích Anne Fischer, quản lý chương trình tại phòng an ninh khoa học của DARPA, cô chia sẻ thêm “Hàng triệu phân tử tồn tại, mỗi phân tử có riêng một thể cấu trúc không gian 3 chiều với hình dáng, kích thước và màu sắc riêng biệt. Sự dồi dào trong cấu trúc cung cấp không gian rộng lớn để khám phá, giải mã và xử lý các dữ liệu nằm ngoài các dãy số 0 và 1 của máy tính thông thường.
HƯỚNG PHÁT TRIỂN TƯƠNG LAI CỦA MÁY TÍNH?
Máy tính lượng tử (còn gọi là siêu máy tính lượng tử) là một thiết bị tính toán sử dụng trực tiếp các hiệu ứng của cơ học lượng tử như tính chồng chập và vướng víu lượng tử để thực hiện các phép toán trên dữ liệu đưa vào. Máy tính lượng tử có phần cứng khác hẳn với máy tính kỹ thuật số dựa trên tranzitor. Trong khi máy tính kỹ thuật số đòi hỏi dữ liệu phải được mã hóa thành các chữ số nhị phân (bit), mà mỗi số được gán cho một trong hai trạng thái (0 và 1), tính toán lượng tử sử dụng các qubit (bit lượng tử) mà chúng có thể ở trong trạng thái chồng chập lượng tử. Một trong các mô hình lý thuyết về máy tính lượng tử là máy Turing lượng tử hay còn gọi là máy tính lượng tử phổ dụng. Máy tính lượng tử có những đặc điểm lý thuyết chung với máy tính phi tất định và máy tính xác suất, với khả năng có thể đồng thời ở trong nhiều trạng thái. Lĩnh vực máy tính lượng tử được Yuri Manin nêu ra lần đầu tiên vào năm 1980 và bởi Richard Feynman năm 1982. Máy tính lượng tử sử dụng tính chất spin đại diện cho các bit lượng tử cũng được hình thành khi khái niệm không thời gian lượng tử được đưa ra vào năm 1969.