Ngày 13 tháng 12 năm 1946
Ngày 13 tháng 12 năm 1946
NGÀY 13-12-1946, CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH RA LỜI TUYÊN BỐ VỚI PHÓNG VIÊN BÁO PARI-SÀI GÒN
Ngày 13-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời tuyên bố với phóng viên Báo Pari - Sài Gòn. Bản Tuyên bố nêu rõ: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Tôi biết là nhân dân Pháp không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách. Chúng tôi tha thiết với nền độc lập, nhưng nước Việt Nam độc lập ở khối Liên hiệp Pháp".
Cùng ngày, hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhan đề "Chiến lược của quân ta và của quân Pháp" và "Động viên kinh tế", cùng ký bút danh Q.T., đăng trên Báo Cứu quốc, số 434.
Nguồn: Báo QĐND
Tháng 02 năm 1969
CÂU CHUYỆN BÁC ĐI THĂM RỪNG CÚC PHƯƠNG
Mỗi lần đi công tác, Bác thường bảo nắm cơm ở nhà mang đi ăn. Trên đường, tính toán đến giờ ăn cơm Bác cháu dừng lại một chỗ nào giữa đường ăn với nhau. Đến nơi, Bác nói với địa phương đã ăn cơm rồi. Bác thích thế, đỡ phiền bữa cơm, mất thì giờ của anh chị em.
Bác nói: “Người ta dọn ra một bữa sang, có khi Bác chẳng ăn đâu, nhưng rồi để lại cái tiếng: Đấy, Bác Hồ đến thăm cũng làm bữa cơm sang, cũng điều người này, người khác từ giao tế sang, chuẩn bị cả buổi, thế là tự Bác, Bác bao che cho cái việc xôi thịt. Không, như thế thì nắm cơm mang theo ăn cho tiện, ăn no rồi đến làm việc”.
Tháng 2-1969, Bác muốn đi thăm rừng quốc gia Cúc Phương. Một số đồng chí lãnh đạo giới thiệu ở đó có nhiều cái hay. Anh em mới xin: Thôi, chuyến này đi thăm rừng quốc gia Cúc Phương, Bác đi máy bay lên thẳng cho đỡ mệt. Bác không chịu: “Các chú cho hễ là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước thì đi đâu, muốn dùng phương tiện gì thì dùng à? Không phải thế đâu. Để Bác khỏe lên, Bác đi ô tô đến thăm rừng Cúc Phương. Không như thế thì thôi. Máy bay lên thẳng để khi nào có người của chúng ta bị tai nạn hoặc bị đau nặng ở vùng hẻo lánh khó chạy chữa thì dùng đón về nơi trung tâm có bệnh viện lớn. Hoặc lúc nào nước sông lên to, mùa bão cần hộ đê thì lấy máy bay lên thẳng mà dùng. Chứ không phải bất kỳ đi đâu, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước cứ dùng máy bay lên thẳng mà đi”.
Và vì thế nên việc đi thăm rừng Cúc Phương cuối cùng không thực hiện được. Nhưng thà thế chứ Bác không muốn dùng máy bay lên thẳng.
Sưu tầm
Ngày 13 tháng 12 năm 1951
"Tinh thần trách nhiệm là gì? Là khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi, đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy, vv… là không có tinh thần trách nhiệm".
Đó là lời của Bác Hồ trong Bài viết về "Tinh thần trách nhiệm" được đăng trên Báo Nhân dân số 36, ngày 13 tháng 12 năm 1951. Đây là năm đầu thực hiện đường lối kháng chiến "toàn dân, toàn diện, trường kỳ và nhất định thắng lợi" của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II đề ra, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đã có một số biểu hiện tư tưởng thiếu cố gắng, làm chưa hết chức trách, nhiệm vụ, nói nhiều, làm ít; làm chưa đến nơi, đến chốn…, để kịp thời đấu tranh, khắc phục và làm cơ sở cho các tổ chức học tập, chỉnh đốn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài viết về tinh thần trách nhiệm.
Thực hiện lời chỉnh huấn của Bác, trong thời điểm ấy, các tổ chức đảng đã tập trung tuyên truyền, giáo dục nâng cao tinh thần cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; nắm chắc tình hình, nhiệm vụ, chủ động khắc phục khó khăn, đoàn kết gắn bó với nhân dân, thi đua phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ giao phó, tạo tiền đề huy động sức mạnh của toàn dân tộc tích cực tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, mà đỉnh cao là thắng lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu cầu ngày càng cao; đại đa số cán bộ đảng viên và quần chúng đều nêu cao vai trò trách nhiệm, thực hiện nghiêm quy định, quy chế làm việc của tổ chức, cơ quan, đơn vị; luôn thể hiện rõ tinh thần chủ động, dám nghĩ, dám làm, tâm huyết, tận tụy với công việc. Cán bộ, chiến sĩ tích cực, tự giác trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, rèn luyện, chấp hành nghiêm kỷ luật, pháp luật; chủ động, sáng tạo, không ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao. Tuy nhiên, cũng còn một số cán bộ đảng viên, quần chúng có biểu hiện trốn tránh trách nhiệm, bớt xén giờ giấc, làm không đúng quyền hạn, chức trách, nói nhiều, làm ít; làm qua loa chiếu lệ… Đòi hỏi việc học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy về "Tinh thần trách nhiệm" không chỉ là yêu cầu, trách nhiệm chính trị đối với mọi cán bộ, đảng viên, mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với mọi tổ chức, cá nhân và mọi công dân yêu nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./
Theo: Long Châu
Ngày 12 tháng 12 năm 1953
" … Sau đây tôi có mấy lời dặn đồng bào và cán bộ ghi nhớ và làm cho đúng:
(1) Đoàn kết, thân ái giúp đỡ lẫn nhau.
(2) Giúp đỡ bộ đội diệt phỉ, trừ gian, giữ gìn trật tự.
(3) Ra sức tăng gia sản xuất để mọi người được ấm no. (4) Hết sức trung thành với Tổ quốc và Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Còn đối với những người trước đây đã lầm đường theo giặc nếu trở về Tổ quốc thì Chính phủ sẽ khoan hồng.
Cán bộ thì phải thật sự gần gũi giúp đỡ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
Chúc đồng bào và cán bộ mạnh khỏe và cố gắng".
Là nội dung Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ, gửi lời hỏi thăm đồng bào và cán bộ tỉnh Lai Châu, Người viết ngày 12 tháng 12 năm 1953. Ngay sau ngày tỉnh Lai Châu được giải phóng; thể hiện lòng thương xót, đồng cảm với đồng bào trong hơn 80 năm bị thực dân Pháp và Việt gian phản động áp bức, bóc lột. Đồng thời dặn dò, mong muốn đồng bào, cán bộ tỉnh Lai Châu phải ghi nhớ để luôn tin tưởng, thực hiện tốt đường lối của Đảng, chủ trương của Chính phủ, thi đua đoàn kết, thân ái; ra sức tăng gia sản xuất, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân; tích cực giúp đỡ bộ đội diệt phỉ, trừ gian, giữ gìn trật tự; cùng với đồng bào miền Bắc tích cực chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, xây dựng miền Bắc đi lên Chủ nghĩa xã hội, góp sức cùng cả nước đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.
Khắc sâu lời dạy của Bác, Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang tỉnh Lai Châu hiện nay luôn tin tưởng tuyệt đối vào vai trò lãnh đạo của Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc anh em trong tỉnh, ra sức thi đua đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tiếp tục duy trì và triển khai đồng bộ Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, cùng với các địa phương trong cả nước, phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tiếp tục học tập và làm theo Bác, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang hôm nay, luôn nhất trí cao với với đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; yêu thương đồng chí đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngại khó khăn gian khổ, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình", thực hiện "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao./.
Theo: Long Châu
Ngày 10 tháng 12 năm 1961
“Đảng viên, đoàn viên thanh niên lao động phải là những người xung phong gương mẫu trong mọi mặt sản xuất, công tác, học tập, đoàn kết”.
Lời căn dặn trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện với cán bộ và xã viên hợp tác xã Vĩnh Thành (Nghệ An)”, Người nói ngày 10 tháng 12 năm 1961.
Đây là thời kỳ miền Bắc nước ta thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1961-1965) nhằm tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề đó, Bác đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên phải nêu cao tính tiền phong gương mẫu trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, công tác. Lời dạy của Bác có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, giúp cho mỗi đảng viên, đoàn viên dễ nhớ, dễ hiểu, dễ làm. Thực hiện lời dạy của Bác, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước, nhiều đảng viên, đoàn viên đã phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu trong lao động sản xuất, chiến đấu và công tác; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám xông pha vào việc khó, dám đi đầu đến nơi gian khổ, dám lao vào những nơi hiểm nguy và không bị sa ngã trước mọi cám dỗ vật chất tầm thường… Qua đó, góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, trước bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực và trong nước có nhiều thuận lợi, thời cơ và không ít thách thức, nguy cơ. Lời dạy của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, định hướng nhận thức, tư tưởng và hành động của mỗi đảng viên, đoàn viên thanh niên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Để thực hiện tốt lời dạy của Bác đòi hỏi mỗi đảng viên, đoàn viên phải phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; khắc phục kịp thời mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị, với toàn thể xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội, nhất là những đảng viên, đoàn viên phải nêu gương trong học tập nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực, chuyên môn nghiệp vụ; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống, tác phong; nói và làm theo nghị quyết, gương mẫu chấp hành mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội, nền nếp, chế độ quy định của cơ quan, đơn vị; thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê bình với tinh thần thẳng thắn, không “dĩ hòa vi quý”; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch./.
Theo: Long Châu
Ngày 09 tháng 12 năm 1957
“Khi phát triển Đảng cần phải chọn lọc rất cẩn thận, phải xem trọng chất lượng quyết không nên làm một cách ồ ạt, không nên tham nhiều... Đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh. Đảng mạnh thì mới làm trọn nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang...”.
Đó là lời Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Tiêu chuẩn của người đảng viên”, đăng trên Báo Nhân Dân, số ra ngày 9-12-1959.
Là người sáng lập và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác phát triển Đảng, bởi theo Người, đây là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của Đảng ta. Lời dạy của Bác có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần chỉ đạo, định hướng công tác phát triển đảng viên của Đảng đúng hướng, có chất lượng.
Thấm nhuần lời dạy của Bác, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng và làm tốt công tác phát triển Đảng, thu hút được những người ưu tú, tiêu biểu nhất về phẩm chất, năng lực, trí tuệ trong giai cấp công nhân, nông dân, trí thức và các thành phần xã hội khác.
Nhờ đó, Đảng ta đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành, đủ sức lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Ngày nay, đất nước ta bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc phát triển Đảng đi đôi với củng cố tổ chức đã và đang được Đảng ta đặc biệt quan tâm trong công tác xây dựng Đảng. Lời dạy của Bác vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn, là kim chỉ nam định hướng đúng đắn cho công tác phát triển đảng viên của Đảng.
Để thực hiện tốt lời dạy của Bác, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng cần thực hiện tốt nhiều khâu, nhiều bước theo một quy trình chặt chẽ, nghiêm túc: Từ tuyên truyền, giáo dục, tạo nguồn, bồi dưỡng, kết nạp đến giúp đỡ đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức, trong đó khâu tạo nguồn, bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng; phải xác định và vận dụng đúng đắn tiêu chuẩn đảng viên, đồng thời thực hiện tốt phương hướng phát triển Đảng; phát triển đảng viên phải tích cực, thận trọng, phát triển phải luôn đi đôi với củng cố Đảng và phải thực hiện tốt các bước phát triển Đảng...
Thực hiện lời dạy của Bác, mỗi cấp ủy và tổ chức đảng trong quân đội phải đặc biệt coi trọng công tác phát triển đảng viên, góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên có chất lượng cao, có số lượng hợp lý, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và Đảng bộ Quân đội, lãnh đạo toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Theo: Long Châu
Ngày 09 tháng 12 năm 1957
"Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân".
Đây là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa 2 Trường Đại học nhân dân Việt Nam”, Người nói ngày 8 tháng 12 năm 1956.
Thấm nhuần tư tưởng mácxít và trải qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, Người đánh giá rất cao vai trò, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân trong tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi con người cụ thể. Đó là người nông dân, công nhân, nhà trí thức, các chiến sĩ, các cháu thiếu nhi, thanh niên, phụ nữ, học sinh, sinh viên, các bậc phụ lão, các dân tộc, tôn giáo, kiều bào ta ở nước ngoài… Bác cho rằng, tất cả đều là nhân dân và dưới bầu trời này, không gì quý bằng nhân dân; trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Lời khẳng định của Bác tuy ngắn gọn, nhưng vô cùng sâu sắc, mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân qua các thời kỳ cách mạng.
Thực hiện lời dạy của Bác, hơn 65 năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người về sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân nhằm phát huy vai trò và tập hợp rộng rãi lực lượng của quần chúng nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhờ phát huy vai trò của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, công cuộc đổi mới của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới./.
Theo Long Châu
Ngày 09 tháng 12 năm 1957
"Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân".
Đây là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa 2 Trường Đại học nhân dân Việt Nam”, Người nói ngày 8 tháng 12 năm 1956.
Thấm nhuần tư tưởng mácxít và trải qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, Người đánh giá rất cao vai trò, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân trong tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi con người cụ thể. Đó là người nông dân, công nhân, nhà trí thức, các chiến sĩ, các cháu thiếu nhi, thanh niên, phụ nữ, học sinh, sinh viên, các bậc phụ lão, các dân tộc, tôn giáo, kiều bào ta ở nước ngoài… Bác cho rằng, tất cả đều là nhân dân và dưới bầu trời này, không gì quý bằng nhân dân; trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Lời khẳng định của Bác tuy ngắn gọn, nhưng vô cùng sâu sắc, mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân qua các thời kỳ cách mạng.
Thực hiện lời dạy của Bác, hơn 65 năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người về sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân nhằm phát huy vai trò và tập hợp rộng rãi lực lượng của quần chúng nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhờ phát huy vai trò của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, công cuộc đổi mới của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới./.
Theo Long Châu
Ngày 08 tháng 12 năm 1956
"Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân".
Đây là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa 2 Trường Đại học nhân dân Việt Nam”, Người nói ngày 8 tháng 12 năm 1956.
Thấm nhuần tư tưởng mácxít và trải qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, Người đánh giá rất cao vai trò, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân trong tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi con người cụ thể. Đó là người nông dân, công nhân, nhà trí thức, các chiến sĩ, các cháu thiếu nhi, thanh niên, phụ nữ, học sinh, sinh viên, các bậc phụ lão, các dân tộc, tôn giáo, kiều bào ta ở nước ngoài… Bác cho rằng, tất cả đều là nhân dân và dưới bầu trời này, không gì quý bằng nhân dân; trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Lời khẳng định của Bác tuy ngắn gọn, nhưng vô cùng sâu sắc, mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân qua các thời kỳ cách mạng.
Thực hiện lời dạy của Bác, hơn 65 năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người về sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách mạng, đồng thời phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân nhằm phát huy vai trò và tập hợp rộng rãi lực lượng của quần chúng nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhờ phát huy vai trò của nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, công cuộc đổi mới của chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới./.
Theo Long Châu
Ngày 02 tháng 09 năm 1945
BỨC ẢNH ĐẶC BIỆT "CỤ HỒ & BÁC GIÁP "TẠI "QUẢNG TRƯỜNG BA ĐÌNH NGÀY 2/9/1945"
Cụ Hồ ngồi cùng Bác Giáp, trong ô-tô: hai gương mặt cương nghị, hiền hoà, có chút khắc khổ vì những lo toan cho vận nước ở giờ phút "ngàn cân treo sợi tóc”.
Bức ảnh có bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng cho người bạn nước ngoài; sau đó, được sưu tập lại từ một quyển biên khảo về lịch sử hiện đại Việt Nam của nhà sử học Australia gốc Mỹ: David Marr.
Tác giả là nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh. Ông kể lại: vào Ngày Độc lập 2-9-1945, Võ An Ninh cầm máy ảnh quyết chụp cho được ảnh Cụ Hồ trên kỳ đài nhưng quá khó tiếp cận... khi buổi lễ đã kết thúc, thấy ôtô ghé vào gần kỳ đài, Võ An Ninh chạy đến gần đúng lúc Cụ Hồ và ông Võ Nguyên Giáp vừa bước vào xe. Nhà nhiếp ảnh vội đưa máy ảnh vào khoang cửa và năn nỉ xin Cụ cho phép chụp bức ảnh. Cụ Hồ khẽ gật đầu nhưng chiếc mũ rộng vành rộng khiến khuôn mặt của Cụ bị che bóng. Võ An Ninh xin phép: “Thưa Cụ, con xin Cụ hạ mũ xuống ạ!! Ông Giáp ngồi bên tủm tỉm cười và đưa tay lên hạ cái mũ Cụ xuống và nhìn tôi... Thế là bức ảnh có một không hai trong cả cuộc đời gắn bó với nghệ thuật nhiếp ảnh của tôi hoàn thành."
Nguồn : Sưu tầm
Ngày 07 tháng 12 năm 1957
“… chủ nghĩa đế quốc là như con “ác vàng” đã ngả về tây. Chủ nghĩa xã hội là như mặt trời mới mọc”.
Lời khẳng định trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài viết “Ai mạnh hơn?”, đăng trên Báo Nhân dân, số 1368, ra ngày 07 tháng 12 năm 1957.
Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, kẻ thù lại thường xuyên chống phá, xuyên tạc làm cho một bộ phận nhân dân nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa xã hội, hoài nghi về tính hiện thực của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Lời khẳng định của Bác có ý nghĩa sâu sắc, góp phần quan trọng định hướng nhận thức, tư tưởng, xây dựng niềm tin cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hiện nay, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản. Do vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người và theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Hơn 60 năm đã trôi qua, lời khẳng định của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, trong hoàn cảnh mới, Đảng ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, được khẳng định trong Cương lĩnh và văn kiện các đại hội của Đảng, là xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Để góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta, cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhận thức sâu sắc đối tác và đối tượng của cách mạng, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ sẵn sàng chiến đấu, chất lượng huấn luyện, công tác, xây dựng nếp sống chính quy, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao./.
Theo Long Châu
Ngày 06 tháng 12 năm 1946
“Điều kiện trừ diệt địch quân phải là điều kiện nhân hòa. Trong hai phe giao chiến, phe nào có đầy đủ điều kiện nhân hòa là phe ấy thắng. Chỉ phe nào vì chính nghĩa mà chiến đấu, phe ấy mới có đủ điều kiện nhân hòa”.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài “Chiến đấu vì chính nghĩa”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 427, ra ngày 06 tháng 12 năm 1946.
Đây là thời điểm nước ta vừa mới giành được độc lập và chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược. Quan điểm xuyên suốt của Hồ Chí Minh là trong chiến tranh, không phải cứ nước lớn, đông dân, lắm quân, nhiều tiền, tiềm lực kinh tế, quân sự dồi dào, thì sẽ hình thành thế và lực mạnh hơn đối phương để giành thắng lợi. Vấn đề là phe nào “có đầy đủ điều kiện nhân hòa” là phe ấy thắng; tuy nhiên, để “có đầy đủ điều kiện nhân hòa”, thì phe ấy phải “vì chính nghĩa mà chiến đấu”. Lời dạy của Bác có ý nghĩa sâu sắc, phản ánh tư duy chiến lược trong xem xét, đánh giá so sánh đúng lực lượng địch và ta, làm cơ sở để hạn chế chỗ mạnh và khoét sâu chỗ yếu của chúng, bồi dưỡng và phát triển lực lượng của ta, nhằm tạo ra tình hình so sánh lực lượng có lợi cho ta, làm cho địch càng đánh càng yếu, ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng to. Thấm nhuần lời dạy của Bác, quân và dân ta đã tiếp thu, vận dụng thành công trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong tương lai, nếu chúng ta buộc phải tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc thì cho dù kẻ thù có ưu thế về vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự nhưng yếu tố “nhân hòa” vẫn là cơ sở vững chắc tạo nên sức mạnh tổng hợp để quân và dân ta chiến thắng.
Hiện nay, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa có những thuận lợi mới, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Lời dạy của Bác vẫn giữ nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải thường xuyên coi trọng xây dựng, phát huy sức mạnh yếu tố “nhân hòa”, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong đó, cốt lõi nhất là phải ra sức củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ; chăm lo và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc.
Thực hiện lời dạy của Bác, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trong đó, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt; tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quân đội; nâng cao hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên vững mạnh; tăng cường mối quan quan hệ đoàn kết cán binh và đoàn kết quân dân; chủ động đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội./.
Theo: Long Châu
Ngày 06 tháng 12 năm 1946
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH KHẲNG ĐỊNH: “C.U.ỘC CH.I.ẾN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM NHẤT ĐỊNH SẼ THÀNH CÔNG”
Ngày 6-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài với nhan đề “Ch.i.ến đ.ấu vì chính nghĩa”, ký tên Q.T., đăng trên Báo Cứu quốc, số 427. Người vạch rõ ch.i.ến lược, ch.i.ến thuật của quân và dân ta cần thực hiện. Đó là ch.i.ến thuật ph.òng ng.ự “bảo tồn được lực lượng để chờ thời cơ trừ d.i.ệt đ.ịch quân” và nhấn mạnh: “thế thủ không phải cố ch.ết để mà giữ, không phải chống nhau với quân đ.ịch ở ngoài cửa ngõ, mà phải dụ quân đ.ịch vào sâu để trừ d.i.ệt chúng... chiến lược t.i.êu h.ao lực lượng của đ.ịch là ch.i.ến lược rất mầu nhiệm trong cuộc ch.i.ến tr.anh tự vệ”.
Phân tích về “điều kiện nhân hòa”, yếu tố quyết định để t.i.êu d.i.ệt quân đ.ịch, Người cho rằng: “Chỉ phe nào vì chính nghĩa mà ch.i.ến đ.ấu, phe ấy mới có đủ điều kiện nhân hoà”, chúng ta ch.i.ến đ.ấu vì chính nghĩa, nên chúng ta có đủ điều kiện nhân hòa. Ngoài yếu tố đó, chúng ta còn có thêm lợi thế nữa, ấy là địa lợi và thiên thời. Có ch.i.ến thuật đúng đắn, lại có đủ ba điều kiện nhân hòa, địa lợi và thiên thời, “cuộc kh.áng ch.i.ến của dân tộc Việt Nam nhất định sẽ thành công”.
Ngày 6-12-1953: Bộ Chính trị quyết định mở ch.i.ến d.ịch t.ấn c.ông thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm ch.i.ến đ.ấu cực kỳ anh dũng, ch.i.ến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Quân ta đã t.i.êu d.i.ệt và bắt sống 16.200 tên đ.ịch, b.ắn r.ơi và ph.á h.ủy 62 máy bay, thu toàn bộ v.ũ kh.í, kho xăng, đ.ạn d.ược, quân trang quân dụng.
Ch.i.ến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm kh.áng ch.i.ến chống Pháp x.âm l.ư.ợc, “đã được ghi vào lịch sử như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa ở thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một ch.i.ến công chói lọi, đ.ột ph.á thành trì của hệ thống n.ô d.ịch th.u.ộc đ.ịa của chủ nghĩa đ.ế q.u.ốc”. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã viết những câu thơ mô tả sinh động những ngày ch.i.ến dịch Điện Biên Phủ gian khổ nhưng hào hùng: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên/chiến sĩ anh hùng/đầu nung lửa sắt/56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt./.
Tuấn Điệp
Nguồn: Báo Quân đội nhân dân
Ngày 05 tháng 12 năm 1962
“Việc to cũng như việc nhỏ. Đảng và Chính phủ ta đều lo phục vụ lợi ích của nhân dân”.
Lời căn dặn trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Cần phải nâng cao chất lượng hàng hóa”, bút danh “T.L”, đăng trên Báo Nhân dân, số 3176, ra ngày 05 tháng 12 năm 1962.
Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang đẩy mạnh thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (1961-1965) nhằm không ngừng phát triển kinh tế - xã hội để trở thành hậu phương lớn chi viện cho chiến trường miền Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai ngụy quân, ngụy quyền giành thắng lợi, thống nhất đất nước.
Là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, khai sinh ra Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc; Chính phủ là của dân, do dân và vì dân. Do vậy, Đảng và Chính phủ phải tôn chỉ mục đích duy nhất là giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc, giải phóng nhân dân khỏi mọi áp bức, bóc lột, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, phục vụ nhân dân từ việc to cho đến việc nhỏ. Lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo năng lực lãnh đạo của Đảng, điều hành của Chính phủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ công khai mục đích hoạt động của Đảng ta, của Chính phủ ta trước quốc dân đồng bào và bạn bè quốc tế, thể hiện sâu sắc, đúng đắn tính giai cấp, tính tiền phong, trí tuệ, đạo đức và tính quần chúng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền tự Trung ương đến cơ sở. Đồng thời, đây còn là tư tưởng chỉ đạo để Đảng và Nhà nước ta luôn hành động đúng tôn chỉ, mục đích, gắn bó mật thiết với nhân dân, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp, nhân dân lao động và của dân tộc lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thấm nhuần lời Bác dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp, mọi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tận trung với Đảng, với Tổ quốc, tận hiếu với nhân dân, không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân; ra sức phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... Cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn thấm nhuần và thực hiện đúng điều Bác Hồ kính yêu đã căn dặn: Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt; với bộ đội, cán bộ các cấp luôn thân thiết như người chị, công bình như người anh, hiểu biết như người bạn, đồng cam, cộng khổ, chi ngọt, sẻ bùi với bộ đội trên tình thương yêu đồng chí, lúc thường cũng như lúc ra trận, thực hiện toàn quân một ý chí./.
Theo: Long Châu
Ngày 04 tháng 12 năm 1962
“Khi phải đương đầu với kẻ địch hung ác, một dân tộc dù bé nhỏ, nếu luôn luôn cảnh giác, đoàn kết nhất trí, kiên quyết và bền bỉ đấu tranh, thì cuối cùng nhất định thắng lợi”.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Ủng hộ Cuba chống đế quốc Mỹ”, bút danh “T.L”, đăng trên Báo Nhân dân, số 3175, ra ngày 04 tháng 12 năm 1962.
Đây là thời điểm nhân dân Cuba vừa giành được nền độc lập và tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời chịu sự bao vây, chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ hòng ngăn chặn, xóa bỏ tiền đồn chủ nghĩa xã hội ở Tây bán cầu. Lời của Bác như một chân lý, một lời hiệu triệu, cổ vũ động viên phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Cuba hãy tin tưởng vào cuộc chiến tranh chính nghĩa của mình, sẵn sàng chiến đấu hy sinh để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ chủ nghĩa xã hội và dù là một dân tộc nhỏ bé, nhưng nếu luôn cảnh giác, đoàn kết nhất trí, kiên quyết và bền bỉ đấu tranh, thì cuối cùng nhất định thắng lợi.
Từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam, với thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đã chứng minh một chân lý của thời đại: Một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển, nhưng luôn có đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, được nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hoà bình trên thế giới đồng tình ủng hộ thì nhất định sẽ đánh bại bất kỳ kẻ thù xâm lược nào... Tiếp đó, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta lại một lần nữa tiếp tục khẳng định và làm sáng tỏ hơn chân lý trên
Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang có nhiều diễn biến phức tạp, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Gần 60 năm đã trôi qua, lời của Bác đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, góp phần cổ vũ động viên các dân tộc dũng cảm, kiên cường giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chống mọi sự can thiệp, áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc; lạc quan, tin tưởng thực hiện thắng lợi công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Thực hiện lời dạy của Bác, Quân đội ta phải tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân; chiến đấu vì mục tiêu lý tưởng cao cả của Đảng, của giai cấp, của dân tộc, là vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân; kiên trì xây dựng, phát triển mối quan hệ đoàn kết hữu nghị với quân đội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội cần nâng cao tinh thần cảnh giác, nhận thức sâu sắc đối tượng, đối tác của cách mạng, đối tượng tác chiến của quân đội trong thời kỳ mới; ra sức thi đua huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, sẵn sàng chiến đấu cao, quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao./.
Theo: Long Châu
Ngày 03 tháng 12 năm 1945
“Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa”.
Lời căn dặn trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam, ngày 03 tháng 12 năm 1945, đăng trên Báo Cứu quốc, số 108, ra ngày 04 tháng 12 năm 1945.
Đây là thời điểm nước ta vừa mới giành được nền độc lập, phải thực hiện nhiều nhiệm vụ cấp bách như: Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm, mở rộng quan hệ với các nước tiến bộ trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam… Lời căn dặn của Bác có ý nghĩa sâu sắc, là sự nhắc nhở ân cần đối với đồng bào các các dân tộc hãy xóa bỏ mọi bất hòa, thành kiến, phải thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà để bảo vệ nền độc lập đã giành được.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang quyết liệt thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, kích động ý thức về tộc người và lợi dụng sự chênh lệnh về trình độ phát triển giữa các dân tộc để tạo mâu thuẫn, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị, là nền tảng lý luận cho chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta; định hướng, dẫn dắt cho hoạt động thực tiễn nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc trong tình hình mới. Thực hiện lời dạy của Người, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc…
Gần 80 năm qua, bằng những việc làm thiết thực như tham gia phát triển kinh tế – xã hội, giúp dân xóa đói, giảm nghèo, xóa mù chữ, phòng chống thiên tai, bão lũ, hỏa hoạn, chăm sóc sức khỏe nhân dân, bài trừ hủ tục mê tín, dị đoan, tệ nạn xã hội… Quân đội ta đã góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Trong giai đoạn mới, phát huy bản chất và truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội nguyện kề vai sát cánh với đồng bào các dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng miền núi, vùng các dân tộc ngày càng vững mạnh, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cùng với đồng bào các dân tộc và nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
Theo: Long Châu
Ngày 02 tháng 12 năm 1949
“Bộ đội phải kính trọng dân, giúp đỡ dân. Dân phải thương yêu bộ đội, ủng hộ bộ đội. Quân và dân phải luôn luôn đoàn kết nhất trí”.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong thư “Gửi toàn thể cán bộ và chiến sĩ Đường số 4 cùng dân quân du kích và đồng bào trong miền Đường số 4”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 1411, ra ngày 02 tháng 12 năm 1949.
Là người trực tiếp tổ chức thành lập, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng quân đội trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. Trong đó, giữ gìn mối quan hệ đoàn kết quân dân luôn được Người quan tâm đặc biệt, thường xuyên nhắc nhở, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Lời căn dặn của Bác ngắn gọn nhưng sâu sắc, là sự nhắc nhở ân cần về trách nhiệm, nghĩa vụ và tình cảm của quân đội đối với nhân dân. Thấm nhuần lời căn dặn của Hồ Chủ tịch, hơn 60 năm qua, những thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã kế tiếp chăm lo xây dựng, giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp, đoàn kết quân dân; gắn bó máu thịt với nhân dân, hết lòng thương yêu dân, quý trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân; ngược lại, nhân dân cũng hết lòng yêu thương, đùm bọc, chăm sóc, giúp đỡ quân đội. Trong thời chiến cũng như trong thời bình, trong khó khăn cũng như hoạn nạn, mối quan hệ quân dân “cá – nước”, đoàn kết gắn bó keo sơn đó đã phát huy được sức mạnh hiệu quả của nó, làm cho tình đoàn kết giữa nhân dân và quân đội ngày càng thêm bền vững.
Hiện nay, trước sự tác động của tình hình thế giới, khu vực, trong nước, trước những tác động của điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là những tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, của quá trình hội nhập quốc tế, cũng như sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” với những thủ đoạn, biện pháp hết sức thâm độc nhằm chia rẽ quân đội với nhân dân, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân, tiến tới làm suy yếu, vô hiệu hóa sức mạnh chiến đấu của quân đội. Lời căn dặn của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, góp phần quan trọng định hướng nhận thức, tư tưởng và hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong củng cố, tăng cường mối quan hệ đoàn kết với nhân dân.
Thực hiện tốt lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội phải luôn có ý thức sâu sắc về nghĩa vụ, trách nhiệm và tình cảm đối với nhân dân; tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua rèn luyện phẩm chất cao đẹp “Bộ đội cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Ra sức thực hiện lời dạy của Bác về “Dân vận khéo”, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quan hệ chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền, nhân dân địa phương nơi đóng quân, tăng cường các hoạt động giao lưu, kết nghĩa giữa đơn vị quân đội với địa phương; tích cực giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế – xã hội, góp phần vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa mới; đặc biệt, luôn chủ động, dũng cảm, kịp thời giúp dân phòng, chống thiên tai, bão lũ, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn…/.
Theo: Long Châu
“Bác Hồ, Người là tình yêu thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Cả cuộc đời Bác chăm lo cho hạnh phúc nhân dân, cả cuộc đời Bác hi sinh cho dân tộc Việt Nam”.
Hồ Chí Minh - Người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, người cộng sản vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Cả cuộc đời Người đấu tranh không biết mệt mỏi vì tự do của dân tộc, vì hòa bình, công lý trên thế giới. Bác đã để lại cho nhân loại nền di sản văn hóa vô giá. Tuy nhiên Bác không phải là thánh nhân mà là con người bằng xương bằng thịt, Bác cũng có gia đình, có bạn bè, có tình yêu đôi lứa như bao nhiêu con người Việt Nam chân chính khác. Vì nghĩa lớn Bác đã gác lại lợi ích riêng của bản thân cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp cứu nước vĩ đại của dân tộc.
Bác sinh ra và lớn lên trong bối cảnh nước mất nhà tan, chứng kiến cuộc sống đau khổ lầm than của kiếp người nô lệ, Bác quyết ra đi tìm đường cứu nước cứu dân. Trong hành trình bôn ba nơi xứ người, Bác đã phải chịu đựng bao gian khổ hiểm nguy, có lúc Bác phải làm bồi bàn có lúc Bác phải sống trong chốn lao tù. Viên gạch hồng sưởi ấm Bác trong những đêm mùa đông lạnh giá...
Tại sao Bác lại có được động lực to lớn và sức mạnh phi thường đến vậy?... Chỉ có tình yêu quê hương đất nước thiết tha sâu nặng mới giúp Bác vượt qua tất cả. Tình yêu sự hy sinh của Bác chính là sự thuyết phục mạnh mẽ nhất đã làm rung động hàng triệu triệu trái tim người dân đất Việt, nhân dân Việt Nam tự nguyện đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.
Toàn quân, toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng - Bác Hồ vùng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm, không kể phụ nữ chân yếu tay mềm, không xá chi tuổi tác già nua, với khí thế sục sôi tất cả cho tiền tuyến. Tính thần yêu nước, sự đoàn kết đã tạo nên sức mạnh giúp dân tộc chiến thắng kè thù dù lớn mạnh đến đâu giành lại nền độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Thắng lợi to lớn mở ra bước ngoặc lịch sử trọng đại mang tên thời đại Hồ Chí Minh và đó là một thời đại rực rỡ nhất, huy hoàng nhất mãi mãi là niềm kiêu hãnh của người dân đất Việt. Bác đã để lại cho nhân dân ta một tình cảm thiết tha sâu nặng. Trong con mắt của em thơ Bác như ông tiên hiền hòa, trong con mắt của Nhân dân Bác như người anh người cha gần gũi thân thương, dưới góc nhìn của các nhà quân sự chính trị Bác là một bậc "đại nhân, đại trí, đại nghĩa, đại dũng”, một con người văn võ song toàn.
Văn hóa phong cách của Bác là sự kết tinh sáng ngời giữa tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Bác có khả năng mang đến niềm vui, niềm tin yêu đến mọi người khắp nơi trên thế giới. Sự ấm áp chan chứa ân tình luôn có sức thu hút cảm hóa lòng người mạnh mẽ, với bất kỳ ai không phân biệt tuổi tác, tôn giáo, giới tính, nó vượt qua khỏi biên giới quốc gia đến với bạn bè khắp nơi trên thế giới.
Tài năng phi phàm đạo đức sáng ngời vì vậy Bác đã trở thành nhân vật nổi tiếng tầm cỡ quốc tế, chính điều đó đã gây nên sự tò mò to lớn? Tại sao Bác không vợ không con?… Ngày 26/10, trả lời câu hỏi cuối cùng của nhà báo nước ngoài. “Tôi không nhà, không cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là gia đình tôi, Phụ lão là thân thích của tôi, phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi”… “Tôi chỉ có ham muốn làm cho Tổ quốc tôi độc lập, thống nhất, dân chủ, bao giờ đạt được mục đích tôi trở về làm một người nông dân, du sơn ngoạn thủy, đọc sách, làm vườn".
Bác không màng danh lợi, mơ ước của Bác là cho nước nhà độc lập, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc”. Trong cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc Bác đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào thực tiễn Cách mạng Việt Nam. Bác là kết tinh văn hóa nhân loại, Bác là tấm gương đạo đức sáng ngời về lối sống và tư tưởng Cách mạng. Chính tư tưởng phẩm chất cao đẹp của Bác đã truyền lại sức mạnh và niềm tin to lớn cho nhân dân Việt Nam. Tư tưởng đạo đức của Bác mãi mãi là tấm gương sáng ngời để chúng con học tập và noi theo.
Hà Thanh
Ngày 01 tháng 12 năm 1962
“Để làm tròn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp; phải hết lòng giúp đỡ thanh niên, làm cho văn nghệ nước nhà ngày càng thêm trẻ thêm xuân”.
Đây là lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ III, ngày 01 tháng 12 năm 1962, đăng trên Báo Nhân dân, số 3173, ra ngày 02 tháng 12 năm 1962.
Là người đặt nền móng cho nền văn học nghệ thuật cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã có công xây dựng một nền văn nghệ mới, thường xuyên sâu sát và có những lời chỉ bảo tận tình, cần thiết cho đội ngũ những người làm công tác văn hóa văn nghệ, đặc biệt là các anh chị em nghệ sĩ. Lời căn dặn của Bác rõ ràng, dễ hiểu nhưng là bài học sâu sắc, tinh tế có giá trị định hướng cụ thể về nhận thức, tư tưởng và hành động nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác, mài sắc ý chí chiến đấu cho những người cầm bút.
Thực hiện lời Bác dạy, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hàng chục ngàn văn nghệ sĩ đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đến với tiền tuyến lớn, lăn lộn trên các chiến trường đầy khói lửa và có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Sau ngày đất nước thống nhất, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới đất nước, đội ngũ văn nghệ sĩ nước nhà tiếp tục phát huy tài năng sáng tạo của mình, thật sự hòa mình vào cuộc sống lao động sản xuất, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, phấn đấu có nhiều tác phẩm xuất sắc, xứng đáng với tầm vóc của cách mạng, với dân tộc Việt Nam.
Hiện nay, lời căn dặn của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, có ý nghĩa to lớn nhằm động viên văn nghệ sĩ cả nước bồi dưỡng cái tâm và cái tài, khám phá, sáng tạo nên nhiều tác phẩm hay và tốt phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến đội ngũ văn nghệ sĩ - những người chiến sĩ tiên phong trên mặt tư tưởng, văn hóa của Đảng và đã xác định rõ trách nhiệm của lực lượng này là cần phải nêu cao trách nhiệm trước nhân dân, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng giáo dục, xây dựng con người; tích cực cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, đồng thời phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn… Thấm nhuần lời dạy của Bác, mỗi văn nghệ sĩ trong Quân đội cần ra sức học tập nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống nhằm không ngừng tự hoàn thiện bản thân; đi sâu bám sát mọi hoạt động của bộ đội, phấn đấu sáng tạo nên nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị đáp ứng kịp thời nhu cầu thẩm mỹ của bộ đội, góp phần tô thắm thêm phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới./.
Theo: Long Châu
Ngày 30 tháng 11 năm 1948
“… Chính sách đúng là nguồn gốc thắng lợi”.
Đây là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu cho bài viết “Một việc mà các cơ quan lãnh đạo cần thực hành ngay”, đăng trên Báo Sự thật, số 103, dưới bút danh X.Y.Z, ngày 30 tháng 11 năm 1948.
Lúc này, phong trào cách mạng thế giới đang phát triển mạnh mẽ, ở trong nước cuộc kháng chiến kiến quốc đang được củng cố và phát triển dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, quân và dân ta vừa giành thắng lợi lớn trong chiến dịch Việt Bắc đã góp phần cổ vũ toàn dân, toàn quân hăng hái tham gia kháng chiến.
Thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ và quân đội nghiên cứu, đề ra các chính sách đúng, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể, đồng thời phải tổ chức thực hiện nghiêm túc các chính sách đó trong mọi điều kiện hoàn cảnh; tổ chức sự kiểm tra chu đáo, chặt chẽ việc triển khai thực hiện ở các cấp, các ngành, các đơn vị, địa phương. Từ đó, đã thu hút được đông đảo các lực lượng tham gia kháng chiến, từ tầng lớp trí thức đến người dân lao động với tất cả của cải vật chất, ý chí, tinh thần, nghị lực đã tạo nên sức mạnh tổng hợp đưa cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Trong tình hình hiện nay, với đường lối, chủ trương lãnh đạo đúng đắn của Đảng, chính sách, pháp luật phù hợp của Nhà nước đã đưa đất nước ta đạt được những thành tựu bước đầu có ý nghĩa lịch sử: Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị – xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa – xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước vẫn gặp phải sự chống phá của các thế lực thù địch, sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một số bộ phận cán bộ, đảng viên, tệ nạn tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân… đã ảnh hưởng đến việc thực hiện không đúng các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện lời dạy của Bác có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; là cơ sở để Đảng, Nhà nước và Quân đội tiếp tục xây dựng chính sách đúng, phù hợp và thực hiện nghiêm túc ở các cấp, góp phần vào thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đối với Quân đội ta càng phải thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Bác để quán triệt, thực hiện nghiêm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là chính sách đối với người có công, chính sách hậu phương quân đội, đồng thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước có những chính sách đúng, phù hợp với tình hình phát triển của thế giới, khu vực và trong nước. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trên cương vị chức trách của mình, phải nêu cao tinh thần học tập và quán triệt sâu sắc lời dạy của Bác bằng những việc làm và hành động thiết thực, hiệu quả, tuyên truyền vận động nhân dân địa phương nơi đóng quân thực hiện tốt các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước./.
Theo: Long Châu
Chiều 28-11, Triển lãm “Danh ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên Thư pháp Hàn Quốc” đã được khai mạc tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Triển lãm do Viện Nguồn lực Văn hóa Hàn Quốc và Hội Di sản Văn hóa Việt Nam tổ chức, nhằm kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hàn Quốc; là tiền đề cho chuỗi chương trình hợp tác giữa hai tổ chức trong tương lai.
Triển lãm trưng bày 47 tác phẩm là các bức thư pháp đạt giải, các bản khắc gỗ, nghiên mực và các tác phẩm thư pháp đẹp được lựa chọn từ 100 tác phẩm trong cuộc thi viết “Danh ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên Thư pháp Hàn Quốc”. Cuộc thi có sự tham dự của 100 sinh viên đang theo học tiếng Hàn ở một số trường đại học.
Sau cuộc thi, 15 tác phẩm xuất sắc nhất đã được trao giải và được các nghệ nhân tài hoa mà Hàn Quốc vinh danh là “Báu vật nhân văn sống” thể hiện trên các bản khắc gỗ. Những tác phẩm thư pháp trên giấy Jokja, các tác phẩm điêu khắc trên gỗ quý, các kiệt tác nghiên mực làm từ đá Nampo… nhằm tôn vinh những giá trị tư tưởng, văn hóa tinh thần và vật chất của cả hai quốc gia Việt Nam - Hàn Quốc. Những tác phẩm đã tạo nên những giá trị mới, mang tư duy và sức sống đương đại trên nền tảng của di sản văn hóa phi vật thể vốn có lâu đời của hai quốc gia: Nghệ thuật viết thư pháp, nghề làm giấy truyền thống, nghệ thuật điêu khắc gỗ và nghề làm nghiên mực, mực và bút lông…
Triển lãm là hoạt động kết thúc Dự án giữa Viện Nguồn lực Văn hóa Hàn Quốc và Hội Di sản Văn hóa Việt Nam, dưới sự hỗ trợ của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hàn Quốc; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam; Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội; thành phố Boryeong (tỉnh Chungnam, Hàn Quốc).
Phát biểu tại lễ khai mạc, TS Uhm Seung Yong, Viện trưởng Viện Nguồn lực Văn hóa Hàn Quốc khẳng định đây là sự kiện giao lưu văn hóa rất đặc biệt. “Chữ Hangeul - tượng trưng cho giá trị văn hóa Hàn Quốc và danh ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - nét văn hóa giúp chúng ta học hỏi giá trị tinh thần của người Việt Nam đã gặp gỡ nhau. Danh ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện di nguyện của Người dành cả cuộc đời cho đất nước. Qua cuộc thi viết và triển lãm, giới trẻ nhận thức hơn về tình yêu, sự hi sinh lớn lao của các nhà lãnh tụ, từ đó có ý thức hơn đóng góp vào sự phát triển của đất nước”.
TS Lê Thị Minh Lý, Phó chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam bày tỏ sáng kiến chia sẻ những câu nói, triết lý sống sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực sự rất sáng tạo và độc đáo; góp phần lan tỏa những giá trị văn hóa tinh túy của hai dân tộc Việt Nam và Hàn Quốc, khích lệ tinh thần không ngừng học hỏi và vươn lên trong cuộc sống. Qua sự kiện, những di sản được nhận ra qua sự đa dạng, tương đồng nhưng cũng rất bản sắc, khuyến khích giới trẻ tôn vinh di sản của cha ông, đồng thời hội nhập trên cơ sở tôn trọng và học tập.
Triển lãm Danh ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên Thư pháp Hàn Quốc sẽ mở cửa đến ngày 30-11-2022.
Báo QĐND.
Dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh là dự báo nối tiếp của những dự báo trước đó.
Sau thắng lợi ở Điện Biên Phủ (7/1954). Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Mỹ đang biến thành kẻ thù trực tiếp” của nhân dân Việt Nam. Bác dự báo tiếp: "Mỹ vào thay Pháp, kẻ thù mới còn hung ác hơn nhiều".
Năm 1960, nhân ngày Quốc khánh lần thứ 15 của nước ta, Người lại dự báo: "Chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc Việt Nam nhất định sẽ thống nhất, Bắc Nam nhất định sẽ sum họp một nhà".
Vào cuối năm 1967, đầu năm 1968, Bác dự báo: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến mọi tình huống càng sớm càng tốt để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam Mỹ sẽ nhất định thua. Nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội."
Trong Di chúc, Bác viết: "Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam dù phải kinh qua gian khổ hi sinh nhiều hơn nữa nhưng nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định sẽ cút khỏi nước Việt Nam. Tổ quốc Việt Nam nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Đó là một điều chắc chắn".
Bài Thơ chúc Tết năm 1969 của Bác! Đây là bài thơ chúc Tết cuối cùng của Người, là lời tiên tri, là sứ mệnh lịch sử Bác trao lại cho thế hệ sau: “Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào
Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn!"
Và sáu năm sau, Chiến thắng lịch sử Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đánh đuổi giặc Mỹ xâm lược, đã xóa bỏ "chế độ" tay sai Ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, Thống nhất Tổ quốc, Bắc Nam sum họp một nhà ❤️🇻🇳🌹
Sưu tầm
Ngày 28 tháng 11 năm 1953
“… Chỉ có hai hạng người không mắc khuyết điểm: là đứa bé còn ở trong bụng mẹ và người đã chết bỏ vào quan tài. Có hoạt động thì khó tránh khỏi khuyết điểm. Nhưng khi có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình, hoan nghênh người khác phê bình và kiên quyết sửa chữa”.
Là lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói tại Hội nghị nghiên cứu Lịch sử Đảng của Ban Tuyên giáo Trung ương, ngày 28 tháng 11 năm 1959, Báo Nhân dân, số 2093, ngày 09 tháng 12 năm 1959.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm: Đất nước tạm thời chia cắt làm hai miền, miền Bắc đã có hoà bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng đang bắt đầu xây dựng một xã hội mới, miền Nam vẫn còn dưới ách đô hộ, áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Đây cũng là thời điểm Đảng và Chính phủ, các cấp và các ngành từ Trung ương đến địa phương tiến hành công tác sửa sai trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc một cách kiên quyết và toàn diện, trên tinh thần đề cao, thật thà tự phê bình và phê bình để nghiêm túc khắc phục, sửa chữa khuyết điểm.
Trong sinh hoạt và hoạt động thực tiễn, mỗi con người và mỗi tổ chức đều có những ưu điểm và khuyết điểm, có mặt thuận lợi và khó khăn, có nhân tố tích cực và tiêu cực, có cái tiến bộ và cái lạc hậu. Quá trình phát triển của mỗi con người, mỗi tổ chức như thế nào và theo chiều hướng nào phụ thuộc chính vào cách thức giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt tốt – xấu, thuận lợi – khó khăn, tích cực – tiêu cực đó. Mỗi người đảng viên và tổ chức đảng cũng như vậy; muốn tiến bộ và phát triển thì phải phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm. Muốn sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, phải đề cao và thật thà tự phê bình và phê bình.
Quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, trong suốt quá trình xây dựng và hoạt động, Đảng ta luôn coi trọng tự phê bình và phê bình; coi đó là quy luật phát triển của Đảng, là thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng và là ý thức trách nhiệm của Đảng với nhân dân. Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng để giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, vấn đề tự phê bình và phê bình càng trở nên cần thiết hơn.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Quân đội đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đặc biệt là giáo dục về đạo đức cách mạng, làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu rõ vai trò, sự cần thiết phải đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, mục đích phương pháp tự phê bình và phê bình; duy trì, thực hiện nghiêm túc nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy đảng, các tổ chức trong đơn vị. Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất cao trong đơn vị, chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, cục bộ bè phái, mất đoàn kết. Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm cán bộ, chiến sĩ vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao./.
Theo Long Châu
Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc sinh năm Nhâm Tuất (1862) tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An.
Là một nhà khoa bảng vào đầu thế kỷ XX , lúc xã hội Việt Nam đang trăn trở chuyển mình tìm phương hướng giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân, thì Cụ là “một nhà nho yêu nước theo kiểu riêng, chống Pháp không công khai mà lặng lẽ” như nhận định từ thực dân Pháp.
Năm Giáp Ngọ (1894), Cụ đỗ Cử nhân, năm Tân Sửu (1901), cụ đỗ Phó bảng và năm 1906 nhậm chức “ Thừa Biện Bộ Lễ” và sau đó là Tri phủ lĩnh nhiệm Tri huyện Bình Khê (Bình Định).
Trong thời gian làm quan Cụ tìm gặp và kết thâm giao với các nhà nho yêu nước như: Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Vương Thúc Quý, Trương Gia Mô… Cụ luôn đứng về phía dân nghèo, trừng trị bọn cường hào ác bá nên triều đình nhà Nguyễn cách chức.
Sau khi bị cách chức, Cụ vào miền Nam và sinh sống tại làng Hòa An-Đồng Tháp để dạy học, bốc thuốc chữa bệnh giúp đỡ người nghèo và sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua đời (27/11/1929)...
Nhân cách và những phẩm chất cao quí đó có ảnh hưởng trực tiếp đến các con của Cụ, đặc biệt là Nguyễn Sinh Cung( tức Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh: Bác kính yêu )
tư tưởng yêu nước thương dân của Cụ Phó Bảng đã được nâng lên thành tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa đấu tranh giải phóng dân tộc các nước thuộc địa bị áp bức trên toàn thế giới.
Ngày 27 tháng 11 năm 1950
“… Các chú đã đánh bật giặc ra khỏi Lào Cai. Bác vui lòng thay mặt Chính phủ khen ngợi các chú. Sau đây là những việc cần phải làm ngay: …Thực hành chính sách toàn dân đại đoàn kết”.
Đây là lời 1/6 việc quan trọng cần phải làm ngay theo chỉ huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư gửi chiến sĩ và cán bộ Lào Cai”, ngày 27 tháng 11 năm 1950, Báo Sự thật, số 151, ngày 27 tháng 11 năm 1950.
Tháng 9 năm 1950, phối hợp với bộ đội chủ lực của ta trong chiến dịch Biên giới, quân dân Lào Cai đã chiến đấu kiên cường lần lượt giải phóng các địa phương trong tỉnh. Ngày 01 tháng 11 năm 1950 thị xã Lào Cai (nay là thành phố Lào Cai) sạch bóng quân thù, chiến dịch Lê Hồng Phong II kết thúc thắng lợi, Lào Cai hoàn toàn được giải phóng. Với chiến công to lớn của quân dân Lào Cai, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư tới chiến sĩ và cán bộ Lào Cai để động viên, khen ngợi và khích lệ kịp thời chiến thắng của chiến sĩ và nhân dân các dân tộc Lào Cai; Người đặc biệt quan tâm việc thực thi chính sách đại đoàn kết toàn dân.
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, trọng nhân nghĩa, khoan dung, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người con đất Việt, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, kết thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc ta vượt lên mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang.
Ngay từ khi mới ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức và cũng là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong mỗi giai đoạn cách mạng.
Thấu triệt lời Bác Hồ dạy, Đảng bộ, chính quyền, đồng bào các dân tộc, lực lượng vũ trang tỉnh và các đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn Lào Cai đã quán triệt và thực hiện nghiêm chính sách đại đoàn kết các dân tộc, giữ vững mối quan hệ gắn bó máu thịt quân với dân, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ an ninh, trật tự trên địa bàn. Quan tâm công tác đối ngoại nhân dân, xây dựng Lào Cai trở thành địa phương giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về quốc phòng, an ninh, trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh ở khu vực biên cương của Tổ quốc./.
Theo: Long Châu
Ngày 26 tháng 11 năm 1954
“Nhờ ai ta có hòa bình?
Nhờ người chiến sĩ quên mình vì dân”.
Câu thơ trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Nhờ ai ta có hòa bình”, báo Nhân dân, số 273, ngày 26 tháng 11 năm 1954, bút danh “C.B”.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953-1954 là thắng lợi to lớn nhất của quân đội và nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thắng lợi này đã tạo một bước ngoặt quan trọng trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, đưa đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt cuộc sự đô hộ của thực dân Pháp; miền Bắc được giải phóng, bắt tay vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo cơ sở, hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân khắc ghi công ơn to lớn của hàng triệu anh hùng, liệt sĩ, những người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do, vì chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì nghĩa vụ quốc tế cao cả và cuộc sống độc lập tự do, hạnh phúc của nhân dân./.
Theo Long Châu
Ngày 25 tháng 11 năm 1954
“Mỗi người yêu nước đều phải làm tuyên truyền. Mỗi cử chỉ, mỗi hành động của chúng ta có thể là một công tác tuyên truyền”.
Đây là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Tuyên truyền”, đăng Báo Nhân dân, số 273, ngày 25 tháng 11 năm 1954, với bút danh “C.B”.
Là một bộ phận của công tác tư tưởng, công tác tuyên truyền có vị trí hết sức quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, cũng như công tác xây dựng Đảng, nhằm phổ biến, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng, các sự kiện thời sự lớn của đất nước và quốc tế, những vấn đề mới đặt ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…; qua đó, góp phần xây dựng thế giới quan, nhân sinh quan, lý tưởng sống, nhận thức chính trị, niềm tin, tình cảm cách mạng, hướng dẫn hành động, phát huy vai trò làm chủ, tính tích cực, tự giác, sáng tạo, động viên, cổ vũ, khích lệ cán bộ, đảng viên và quần chúng ra sức thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ cách mạng… Đồng thời, công tác tuyên truyền còn là công cụ sắc bén trong đấu tranh, phản bác có hiệu quả trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, chống phá cách mạng Việt Nam và tham gia phê phán các quan điểm sai trái, lệch lạc, tiêu cực nảy sinh trong cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Công tác tuyên truyền là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên giữ vai trò nòng cốt; song điều quan trọng nhất ở mỗi cán bộ tuyên truyền là phải có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng; luôn nói, viết, làm đúng nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chấp hành nghiêm quy chế, quy định về cung cấp thông tin, phát ngôn; tiêu biểu về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực công tác thì công tác tuyên truyền mới đạt được mục đích, yêu cầu đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Một trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương sống” và “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, công tác tuyên truyền được cấp ủy, tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp trong Quân đội quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện nghiêm túc, với nhiều cách làm sáng tạo, góp phần nâng cao nhận thức, xây dựng niềm tin, niềm vinh dự, tự hào về truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng, về danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” và phát huy cao độ bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, ý thức, trách nhiệm, trí tuệ, tài năng, sức sáng tạo to lớn của cán bộ, chiến sĩ toàn quân, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.
Theo: Long Châu
Ngày 24 tháng 11 năm 1954
“Nếu chính quyền biết lãnh đạo và khuyến khích, khen cái nên khen, thưởng việc nên thưởng, thì không những người lớn mà các trẻ em cũng hăng làm việc có lợi”.
Đây là 1/5 việc nhỏ, ý nghĩa to trong bài viết “Việc nhỏ, ý nghĩa to” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng báo Nhân dân, số 272, ngày 24 tháng 11 năm 1954, với bút danh “C.B”.
Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiến lên giành nhiều thắng lợi mới; trong đó vai trò của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với việc đoàn kết, tập hợp quần chúng nhân dân chung sức, đồng lòng, tận tâm, tận lực phấn đấu vì sự nghiệp chung có ý nghĩa rất quan trọng. Để làm được điều đó, đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, có phương pháp vận động, khích lệ quần chúng bằng những chính sách, nhiệm vụ cụ thể, thiết thực và biết làm tốt công tác khen thưởng, xử phạt đúng như những chỉ dẫn trong bài viết “Việc nhỏ, ý nghĩa to” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Có thể khẳng định rằng, những thành tựu to lớn của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với vai trò của cấp ủy, chính quyền, nhất là của đội ngũ cán bộ, trong đó phải nói tới phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc và rèn luyện phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc mới theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh. Phần đông cấp ủy, chính quyền các cấp và đội ngũ cán bộ có phong cách lãnh đạo ngày càng sâu sát cơ sở, làm việc một cách khoa học, dựa trên trình độ học vấn ngày càng cao và chuyên sâu công việc, năng động sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Nhiều cán bộ đã thực hành tốt nói đi đôi với làm và nêu gương trước cấp dưới, được quần chúng khen ngợi. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trong phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc. Đáng lưu ý là có một số ít cán bộ có chức, có quyền cao còn biểu hiện quan liêu, chuyên quyền, độc đoán, hách dịch, xa dân. Một số cán bộ coi thường tính đảng, tính nguyên tắc trong công việc, lấy yêu cầu năng động, sáng tạo để che đậy cho những việc làm sai trái; một số cán bộ đã biến lối làm việc tập thể, cá nhân phụ trách thành “cá nhân phụ trách, tập thể chịu trách nhiệm” khi có sai phạm xảy ra, gây bức xức trong dư luận cần phải sớm khắc phục.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Quân đội luôn đề cao và chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ Quân đội, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, điều hành, quản lý của chỉ huy các cấp; thường xuyên làm tốt công tác thi đua, khen thưởng và giữ nghiêm kỷ luật tự giác, nghiêm minh… đã động viên được cán bộ, chiến sĩ từ người sĩ quan cấp tướng đến chiến sĩ binh nhì đều nêu cao trách nhiệm, tận tâm, tận lực, đoàn kết cùng nhau khắc phục khó khăn, nỗ lực trong thực hiện nhiệm vụ, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.
Theo: Long Châu
Ngày 23 tháng 11 năm 1951
“… Noi gương oanh liệt của Khởi nghĩa Nam bộ, chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ và kháng chiến mạnh mẽ lên mãi để phá âm mưu của giặc: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước, giành độc lập và thống nhất thực sự cho Tổ quốc”.
Đây là lời căn dặn, nhắc nhở của Bác viết trong “Thư gửi cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ”, ngày 23 tháng 11 năm 1951, nhân kỷ niệm Ngày Khởi nghĩa Nam Bộ (23/11/1940).
Cuộc khởi nghĩa Nam Bộ ngày 23 tháng 11 năm 1940 tuy không thành công, nhưng đã để lại tấm gương oanh liệt, thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của đồng bào các tỉnh Nam Bộ trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Đặc biệt là Lời căn dặn, nhắc nhở của Bác trong thời điểm này như tiếp thêm sức mạnh, cổ vũ động viên cán bộ, chiến sĩ cả nước nói chung, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ nói riêng trường kỳ kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược để giải phóng đất nước.
Thấm nhuần lời nhắc nhở của Bác, với tinh thần và ý chí quật cường, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ tiếp tục đứng lên, cùng với đồng bào và chiến sĩ cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đánh đuổi đế quốc Mỹ, chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Thực tế đã chứng minh, dù bất luận trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi tình huống, cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Nam Bộ cùng với quân và dân cả nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã anh dũng chiến đấu đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng quê hương, thống nhất nước nhà và bảo vệ toàn vẹn độc lập, tự do của Tổ quốc, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Nam bộ thành đồng, đi trước về sau”.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động; tình hình Biển Đông luôn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp, nguy cơ mất ổn định. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố vẫn diễn ra có thể gây mất ổn định ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ta đã lớn mạnh, nhưng bên cạnh những thuận lợi cơ bản, cơ hội và thách thức vẫn đan xen các thế lực thù địch gia tăng thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền… để can thiệp vào công việc nội bộ nước ta, chống phá Đảng, Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta. Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nói chung, quân và dân Nam bộ nói riêng không ngừng mài sắc cảnh giác, phát huy cao độ nội lực, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững và tăng cường đoàn kết quân dân, đoàn kết hữu nghị với nhân dân và Quân đội các nước theo truyền thống của Đảng, của dân tộc và của Quân đội ta; kết hợp sức mạnh thời đại, tạo dựng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Học tập và làm theo lời căn dặn của Bác Hồ năm xưa, Quân đội nhân dân Việt Nam phải chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, thế trận quốc phòng – an ninh vững chắc, nâng cao tiềm lực quốc phòng. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục quốc phòng và an ninh, chất lượng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng – an ninh – kinh tế – đối ngoại. Chú trọng xây dựng các khu kinh tế – quốc phòng trên tuyến biên giới, vùng sâu, vùng xa, tạo thế trận quốc phòng – an ninh bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc ở các địa bàn chiến lược. Tổ chức các lực lượng vũ trang hợp lý, đồng bộ, cân đối giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, các quân binh chủng phù hợp với yêu cầu tác chiến mới. Tiếp tục nâng cao chất lượng tổng hợp, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới./.
Theo: Long Châu
Ngày 22 tháng 11 năm 1953
“Anh hùng thật là những người bất cứ việc to việc nhỏ, luôn luôn cố gắng, vượt qua khó khăn, làm tròn nhiệm vụ”.
Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài “Anh hùng giả và anh hùng thật”, đăng trên Báo Nhân dân, số 149, từ ngày 21 đến ngày 25 tháng 11 năm 1953.
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác thi đua – khen thưởng, phát hiện, cổ vũ, động viên, phát huy và nhân rộng những tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến, các anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động… để nhân lên cái đẹp, đẩy lùi cái xấu, góp phần hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Bác đã dạy: “Một trăm bài diễn thuyết hay không bằng một tấm gương sống” và “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
Thấu triệt tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta đã luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác thi đua – khen thưởng, xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến, tôn vinh các anh hùng lực lượng vũ trang, anh hùng lao động có sức lan tỏa sâu rộng, tạo nên động lực, cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thi đua hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ cách mạng. Từng thời kỳ, từng giai đoạn, đều xuất hiện nhiều tấm gương người tốt, việc tốt, những anh hùng tiêu biểu mẫu mực về nỗ lực vượt mọi khó khăn, gian khổ, nói đi đôi với làm, nói ít là nhiều, làm có hiệu quả, không quản ngại hy sinh, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của tập thể lên trên, lên trước, sống nghĩa tình, thủy chung… được mọi người tôn vinh, học tập và noi theo.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tích cực hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, các phong trào của các cấp, các ngành và đã cụ thể hóa thành phong trào thi đua Quyết thắng được triển khai sâu rộng và được cán bộ, chiến sĩ toàn quân, lực lượng dân quân tự vệ tích cực hưởng ứng thực hiện với quyết tâm chính trị và trách nhiệm cao. Toàn quân luôn tận trung với Đảng, với Tổ quốc, tận hiếu với nhân dân, không ngại khó khăn, gian khổ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Toàn quân đã xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân anh hùng tiêu biểu tinh thần vượt mọi khó khăn, thử thách, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo, quyết chiến, quyết thắng, đoàn kết, thương yêu đồng chí, đồng đội, gắn bó máu thịt với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” nhân dân tin tưởng, yêu mến trao tặng./.
Theo: Long Châu
Ngày 21 tháng 11 năm 1953
“… Kháng chiến của ta nhất định thắng lợi, nhưng phải trường kỳ, gian khổ, tự lực cánh sinh.”.
Lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong “Thư gửi quân và dân Tây Bắc”, ngày 21 tháng 11 năm 1953, Báo Nhân dân, số 149, từ ngày 21 đến 25 tháng 11 năm 1953.
Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có sự thay đổi lớn có lợi cho ta, các đại đoàn chủ lực ra đời, liên tục giành thắng lợi lớn trên các chiến trường, đặc biệt các chiến dịch quan trọng như Chiến dịch Biên giới (1950), Chiến dịch Tây Bắc (1952)… làm phá sản âm mưu của thực Pháp hòng chia rẽ dân tộc bằng “xứ Thái tự trị”, “xứ Nùng tự trị” giải phóng một vùng Tây Bắc nối liền với Việt Bắc tạo thành thế liên hoàn có lợi cho kháng chiến. Ngày 20 tháng 11 năm 1953, thực dân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, mở đầu giai đoạn chiếm đóng vùng đất xứ Thái Tây Bắc Việt Nam. Ngay ngày hôm sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư động viên, căn dặn quân dân cả nước nói chung, quân dân Tây Bắc nói riêng đề cao cảnh giác, đoàn kết nhất trí một lòng xây dựng lực lượng, tạo sức mạnh tổng hợp chuẩn bị cho cuộc quyết chiến chiến lược đánh bại thực dân Pháp xâm lược.
Thực hiện sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã nêu cao ý chí tự lực, tự cường vừa chiến đấu, vừa sản xuất, xây dựng lực lượng góp phần vào chiến thắng đông xuân 1953 – 1954, mà đỉnh cao là thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ (07/5/1954) chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp. Tinh thần đó tiếp tục được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy, tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, trong các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, làm nhiệm vụ quốc tế cao cả và trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Thấu triệt lời Bác dạy, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn tin tưởng và trung thành với sự lãnh đạo “Tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng Cộng sản Việt Nam, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải tích cực học tập, quán triệt và thấm nhuần lời dạy của Bác, luôn đề cao cảnh giác, tự lực, tự cường, đoàn kết thống nhất, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình đội mọi mặt, chiến đấu anh dũng, chấp nhận hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng, tô thắm truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng”, xứng đáng với niềm tin yêu và danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” mà nhân dân tin tưởng, yêu mến trao tặng./.
Theo: Long Châu