Miêu tả:Vấn đề đặt ra, trường hợp bên vay vi phạm quy định về sử dụng vốn vay đúng mục đích, thì họ phải chịu các biện pháp chế tài như thế nào ?
Theo biện pháp chế tài này, bên cho vay được phép: chấm dứt cho vay, thu hồi tiền vay trước thời hạn (Điều 21 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN). Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng còn đặt ra các khoản phí buộc bên vay phải trả, bồi thường thiệt hại nhằm tăng cường trách nhiệm bên vay nhưng tổ chức tín dụng phải chứng minh được các khoản tiền thiệt hại này là hậu quả trực tiếp do lỗi của bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích gây ra.
Việc sử dụng vốn vay trái mục đích là dấu hiệu rõ ràng nhất của hành vi chiếm đoạt tiền vay. Thông thường những biểu hiện bên ngoài của hành vi này là: khách hàng tạo dựng chứng từ giả mạo, cung cấp thông tin không đúng sự thật với mục đích duy nhất: có được vốn vay để giải quyết cho các nhu cầu riêng của mình, kể cả việc sử dụng vào mục đích trái pháp luật. Nếu không hoàn trả tiền vay, đây là những biểu hiện của ý thức (chủ quan), sai phạm về những gian dối của bên vay, căn cứ xác định hành vi chiếm đoạt tài sản đã hoàn thành để các cơ quan tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong thực tiễn cho vay, quy định mục đích sử dụng vốn vay được pháp luật Việt Nam đề cập nhằm xác định hành vi sai phạm, kể cả xử lý về hình sự, tương tự như được đề cập tại pháp luật Ngân hàng Trung Quốc (Điều 80 Luật Ngân hàng thương mại Trung Quốc quy định: “Người đi vay bằng sự gian trá để được vay coi như là phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo như luật nàý\ Trong lĩnh vực hình sự Việt Nam, các nhà làm luật còn thiết kê thành điều luật riêng về các tội phạm liên quan đến lĩnh vực ngân hàng (Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017) thông nhất áp dụng cho các hành vi liên quan đến lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm này.Trên cơ sở các dấu hiệu về tội phạm được đề cập, hành vi này nếu cấu thành tội phạm thì bị xử lý về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” hoặc “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (Điều 174, 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017);
+ Mặt chủ quan của tội phạm thể hiện ở ý thức chiếm đoạt tiền vay trước (đối với hành vi lừa đảo) và sau (đối với hành vi lạm dụng tín nhiệm) khi ký hợp đồng vay;
+ Mặt khách quan của tội phạm, bên vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích, gian dối hồ sơ vay, giả mạo tài liệu chứng từ để giải ngân, bỏ trốn sau khi nhận tiền vay,...
Trong thực tiễn áp dụng luật, ranh giới hành vi tội phạm trong lĩnh vực này thường khó xác định, còn nhiều tranh cãi. Vì việc sử dụng vốn vay không đúng mục đích phải gắn liền với ý thức chiếm đoạt tài sản và hệ quả của hành vi chiếm đoạt đó. Không ít trường hợp các cơ quan tố tụng nhầm lẫn, đánh giá sai hành vi phạm tội dẫn đến hình sự hóa (theo nghĩa tiêu cực đánh giá sai hành vi phạm tội) quan hệ cho vay (đơn cử, vụ ông Lương Ngọc p kiện đòi bồi thường thiệt hại do truy tố oan sai khi cho vay đã được dư luận nhiều lần phản ánh - Xem: Phi Long/Truyền hình Quốc hội: Giám đốc bị án oan Lương Ngọc Phi được bồi thưởng kỷ lục gần 23 tỷ).
Tóm lại, quy định sử dụng vốn vay đúng mục đích theo pháp luật Việt Nam như hiện nay phù hợp kinh nghiệm theo pháp luật các nước. Với các ý nghĩa tương đồng, nâng cao năng lực kiểm soát, bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay như phương án vay ban đầu được đề ra. Từ hiệu quả này, năng lực tài chính của bên vay được nâng cao, giúp cho các tổ chức tín dụng dễ dàng thu được tiền vay. Đó còn là sự bảo đảm cho công tác quản lý của Nhà nước, kiểm soát dòng tiền đầu tư vào nền kinh tế. Với những phân tích, minh chứng, pháp luật Việt Nam hiện hành đã kế thừa trong các quy định về sử dụng vốn vay đúng mục đích, phù hợp với chuẩn mực pháp luật, thông lệ cho vay như ở các nước trên thế giới, cần tiếp tục phát huy quy định này trong thời gian tới.
Suy ngẫm: