Biết rõ là vô thường, vô ngã để điều khiển Ý ,Thức không bị chao động trước những chuyển biến những đổi khác. Người làm chủ được mình, là người vượt lên trên phàm phu trở thành Thánh quả. Thực thì quả là khó. Kỳ thực, đức Phật đặc biệt chú trọng đến việc khảo sát Ý ,Thức phàm phu; dẫn dắt vào đạo, bằng cách tu tập khiến nhiễm ô thành thanh tịnh. Do thanh tịnh là không dao động. Chỉ riêng có danh từ “Thanh tịnh”, nhưng lại có nhiều cách nói: nhiễm ô là , biến dị không ngưng nghỉ, khảo sát tỉ mỉ trạng thái nhiễm ô cũng có nhiều dạng; theo tư liệu nguyên thỉ, nhiễm ô được phân loại và qui nạp thành mười hai khoảnh:
1. Ngũ cái 24: gồm có tham dục cái, sân nhuế cái, hôn trầm cái, kiến nghi, vô minh.
2. Thất kết (sử): gồm có dục tham, hữu tham, sân nhuế, mạn, kiến, nghi, vô minh.
3. Cửu kết (sử): lấy Thất kết làm cơ sở, lấy “hữu tham” đổi thành “thủ”, lại thêm vào tật, và xan.
4. Ngũ hạ phần kết: thân kiến, nghi giới cấm thủ, dục tham, sân.
5. Ngũ thượng phần kết: thân kiến, nghi giới cấm thủ, dục tham, sân.
6. Tứ bộc lưu: dục bộc lưu, hữu bộc lưu, kiến bộc lưu, vô minh bộc lưu.
7. Tứ lậu: dục lậu, hữu lậu, kiến lâu, vô minh lậu.
8. Tứ thủ: dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ.
9. Tứ hệ: tham hệ, sân hệ, giới cấm thủ hệ, thị chơn chấp hệ.
10. Tam cầu: dục cầu, hữu cầu, phạm hạnh cầu.
11. Thập lục tam cấu: bất pháp dục, sân, phẫn, hận, phú, não, tật, xan, siểm, cuống, can phức, báo phục tâm, mạn, quá mạn, kiêu, phóng dật.
12. Nhị thập nhất tâm uế: tà kiến, phi pháp dục, ố tham, tà pháp, tham, nhuế, tùy miên, trạo hối, nghi hoặc, sân triền, bất ngữ kết (phú tàng tội), xan, tật, khi cuống, du siểm, vô tàm, vô quí, mạn, đại mạn, mạn ngạo, phóng dật.
Tùy từng trường hợp, đức Phật dùng ngữ vựng thích hợp để giải rõ trạng thái “tâm bệnh”. Sắp theo thứ hàng, thì mười một khoảnh trước được trích từ “Ấn Ðộ Phật Giáo Sử” của Long Sơn Chơn Ðiền. Khoảnh thứ mười hai lấy từ kinh Trung A Hàm quyển 23, kinh thứ 93 25 Nếu toát yếu lại mười hai khoảnh trên thì không ngoài tham - sân - si. Ðức Phật gọi đó là tam độc, tam bất thiện căn, tam hỏa. Gần đây có người giải thích tam độc như vầy: “tâm là một thứ tham dục, hành vi và không thấy đủ của tâm cứ tương tục tiến hành một cách không ngừng nghỉ; do tham dục, hành vi và không thấy đủ của tâm, ba thứ này cấu thành như một sự tuần hoàn 26. Lối giải thích này không mấy chính xác, nhưng dễ lý giải.
Do tham, sân, si mà phân biệt thành nhiều trạng thái tâm lý với nhiều tên gọi khác nhau. Ðồng thời để đối trị tham, sân, si lại cũng phần ra nhiều trạng thái tâm lý và tên gọi khác nhau. Những phân tích trên về các trạng thái tâm lý, kết quả được đời sau gọi một cách ngắn gọn là: tâm vương, tâm sở, tâm sở thiện và tâm sở bất thiện. Sự hpân tích trạng thái tâm lý của Phật giáo không đơn thuần là sự phân tích của tâm lý học hiện đại, mà sự phân tích này là nhằm khai thông cách đối trị tâm phiền não nơi con người. Tâm lý học hiện đại là một môn học nằm giữa môn sinh lý học và xã hội học. Nếu biện biệt một cách gán ghép, thì có thể nói tâm lý học của Phật giáo là nhằm đưa con người trở về với căn bản nhân sinh và giải thoát. Trong khi tâm lý học hiện đại chỉ nhằm phân tích và giải thích hiện tượng tâm lý con người.
GHI CHÚ
24 . Cái, có nghĩa là che.
25 . Ðại Chánh tạng-1, giữa trang 25.
26 . Chu Trước “Triết Học Sử Ấn Ðộ” quyển 2, Chương III.