Nội dung:
Cá tra và cá basa là 2 trong số 11 loài cá thuộc họ cá tra (Pangasiidae) đã được tìm thấy ở sông Cửu Long. Trong đó có 5 loài được nuôi nhiều nhất hiện nay ở Đồng Tháp và An Giang, chủ yếu nuôi trong ao và trong bè. Tên khoa học của cá tra là Pangasianodon hypophthalmus, của cá basa là Pangasius bocourti. cả hai loài này đều thuộc giống Pangasius, họ Pangasiidae (Cá tra), bộ Siluriformes (Cá da trơn-catfishes), lớp Osteichthyes (Cá xương) và ngành Chordata (Động vật có dây sống).
Ở Việt Nam, cá tra và cá basa có nhiều tên thương mại khác nhau. Điều này đã dẫn đến tình trạng tranh chấp về sản phẩm của hai loài cá này trên thị trường. Trước tình hình này, vào năm 2004, Hội nghị về chất lượng và thương hiệu Cá tra - Cá basa, do Bộ Thủy sản và Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang tổ chức, đã thông nhất đặt tên thương mại cho Cá tra là Pangasius và Cá basa là Basa Pangasius.
Trong tự nhiên, Cá tra và Cá basa phân bố nhiều nhất ở lưu vực sông Mê Kông thuộc các nước Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam. Ngoài ra ở Thái Lan, người ta còn tìm thấy hai loài cá này trên sông Chao Phraya.
Xem thêm >
Ở phần sống Mê Kông của Việt Nam thường ít thấy cá tra và cá basa trưởng thành xuất hiện. Bởi vì khi đến tuổi trưởng thành, cá tra và cá basa có tập tính di cư ngược sông Mê Kông đế tìm bãi đẻ tự nhiên.
Người ta đã khảo sát và phát hiện bãi đẻ của chúng thuộc địa phận Campuchia. Đến mùa sinh sản, cá tìm các cây cỏ thủy sinh ven bờ để đẻ trứng và thụ tinh tự nhiên. Sau khi nở, cá bột theo dòng nước xuôi về hạ lưu, và một số sẽ xuôi về phần sông Mê Kông của Việt Nam.
Ở Việt Nam, trong những năm trước đây khi mà phương pháp sinh sản nhân tạo Cá tra và Cá basa chưa được áp dụng, người nuôi cá phải vớt cá bột và cá giống trên sông Tiền và sông Hậu. Cách làm này cũng có mặt trái là làm thiệt hại nghiêm trọng đến nguồn lợi cá trong tự nhiên.
Đã từ lâu nay, rất nhiều người nuôi Cá tra và Cá basa ở Việt Nam, nhất là ở An Giang và Đồng Tháp (Hồng Ngự) đã chủ động được con giống nhờ thực hiện được phương pháp sinh sản nhân tạo, ép cá tra giống, ương giống cá tra.
+ Đặc điểm về ngoại hình của Cá tra: Các loài Cá tra đều có da trơn (không vảy), thân dài, thon và dẹp. Lưng có màu xám đen, bụng có màu trắng bạc, vây lưng cao, vây ngực có ngạnh. Miệng rộng, có 2 đôi râu dài.
Kích cỡ của cá tra tùy thuộc vào từng loài. Loài cá tra nuôi ở Việt Nam có kích thước khi trưởng thành khoảng 4 - 5kg/con. Tuy nhiên trên thực tế cũng có con nặng khoảng 10 - 20kg.
+ Hình dáng của Cá basa (Cá basa còn gọi là cá Bung) cũng là cá da trơn, cò thân hình dài và thon, hơi dẹp hai bên, chiều dài chuẩn bằng khoảng 2,5 lần chiều cao của thân. Đầu ngắn và hơi tròn, trán rộng, mắt tọ. Miệng hẹp và hơi lệch dưới mõm. Răng hàm trên tọ và rộng, hơi nhô ra khi miệng khép lại. Miệng cò 2 đôi râu, một đôi ở hàm trên và một đôi ở hàm dưới, chiều dài hai đôi râu khác nhau. Lưng màu xám xanh và nhạt dần xuống bung. Bụng to và có màu trắng bạc. Gai vi ngực cứng và nhọn. Mặt sau của vi ngực có răng cưa xuống tớ gốc. Vi bụng kéo dài đến vi hậu môn. Vi hậu môn có màu trắng trong.